Về xuất sứ của
sao Cự Môn, cần phải nhắc đến một đoạn trường tình của Khương Tử Nha với người
đàn bà thô tục, vụng về, lăng loàn với người đàn bà tên là Mã Thiên Kim. Mã
Thiên Kim sống với Tử Nha không chịu nổi cảnh thanh bần, nghèo khó đã bỏ ông đi
với người khác.
Mã Thiên Kim bên cạnh Khương Tử Nha |
Ngay khi mã
Thiên Kim rời đi thì cũng là lúc Tử Nha trở thành quân sư của Văn Vương. Mã
Thiên Kim chết đi được mời chưởng quản sao Cự Môn là nữ thần trông coi việc thị
phi, mồm mép.
Đặc
điểm sao Cự Môn
-
Phương Vị:
Bắc Đẩu Tinh
-
Tính:
Âm
-
Hành:
Thủy
-
Loại:
Ám Tinh
-
Chủ về:
Ngôn ngữ, thị phi
-
Tên gọi tắt:
Cự
Vị
trí Cự Môn ở các Cung
-
Miếu địa
ở các cung: Mão, Dậu.
-
Vượng địa
ở các cung: Tý, Ngọ, Dần.
-
Đắc địa
ở các cung: Thân, Hợi.
-
Hãm địa
ở các cung: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ.
Sao Cự Môn là sao thứ 4 trong 8 sao thuộc
chòm sao Thiên Phủ, theo thứ tự bao
gồm: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự
Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Sao Cự Môn ở Mệnh
Ý nghĩa tướng mạo,
ngoại hình, tính cách
+ Cung Mệnh có Cự
Môn, nên thân hình đẫy đà, thấp da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, mắt lộ.
+ Sao Cự Môn ở
cung miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì thông minh, nhân hậu, vui vẻ, mưu trí,
có khả năng phán xét tinh vi.
+ Sao Cự Môn ở
cung hãm địa thì kém thông minh, hay nhầm lẫn, không có tánh dứt khoát, ba phải,
người hay nói khoác, ích kỷ, đa nghi, tính khí hay thay đổi, tham lam, có tài
nhưng kém đức, hay lợi dụng. Người nữ thì hay đố kỵ, ghen tuông, đa nghi.
- Nam
mệnh
+ Cự miếu, vượng
hay đắc địa, thủ Mệnh là sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến
tột bậc có uy danh lừng lẫy, phúc thọ song toàn.
+ Cự hãm địa gặp
nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang
thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ sinh dục, hay mắc
những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào xích xiềng, và chắc chắn
là yểu tử, nhưng chết một cách rất thê thảm.
- Nữ
mệnh
Cự Miếu địa hay
đắc địa thủ Mệnh, là người tài giỏi đảm đang, có đức độ, rất vượng phu ích tử,
lại được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây, nếu Cự gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp
hội hợp, tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, phúc thọ song toàn.
+ Cự hãm địa là
người có tướng lạ, ai mới trông thấy cũng qúy mến, nhưng lại có tính dâm dật,
hoang đàng gian tham, ăn nói sàm sỡ điêu ngoa, hay ghen tuông, suốt đời vất vả,
có nhiều tật bệnh, thường mắc những tai nạn bất kỳ, nếu không sớm ly tổ nhất định
là không thể sống lâu được.
+ Cự hãm địa,
nên muộn lập gia đình, để cố tránh những sự dở dang, đau đớn về sau này.
+ Cự hãm địa gặp
nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng
hại con, phải lang thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở bộ
phận sinh dục, thường mắc những tai nạn khủng khiếp, đáng lo ngại và tất nhiên
là yểu tử, nhưng chết một cách rất thê thảm.
Ý
nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ
+ Cự miếu, vượng
hay đắc địa là người thông minh, nhân hậu, vui vẻ, có mưu cơ, có trí xét đoán
sáng suốt, ăn nói đanh thép, được hưởng giàu sang và sống lâu. Đây, nếu Cự gặp
nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu,
Khoa, Quyền, Lộc tất được hưởng phú qúy đến tột bậc, có uy quyền hiển hách và
danh tiếng lừng lẫy.
+ Cự miếu, vượng
hay đắc địa gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Tuế Hình, là người có văn tài lỗi
lạc, khẩu thuyết hùng hồn, thích hoạt động chính trị, thường chuyên về tư pháp,
ngoại giao.
+ Cự miếu, vượng
hay đắc địa, gặp Hổ, Tuế, Phù hội hợp là người biết nhiều luật pháp, hay lý luận,
thường làm quan tòa, thầy kiện.
+ Cự vượng địa,
Tý, Ngọ là người học rộng tài cao có đức độ. Đây, Cự ví như ngọc giấy trong đá.
Vậy cần phải gặp Hóa Lộc đồng cung, hay gặp Tuần, Triệt án ngữ, như thế ngọc mới
lộ vẻ sáng đẹp. Cung Mệnh
có cách này mới được hưởng phú qúy. Trái lại, nếu Cự không gặp Hóa Lộc đồng
cung, không gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay nếu Cự gặp Tồn đồng cung: thật chẳng
khác gì ngọc chìm sâu trong đá. Cung Mệnh có cách này là người đa học, đa năng
nhưng không gặp thời.
+ Cự miếu, vượng
hay đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình,
tuy vẫn sống lâu, nhưng suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, thường phải
sớm xa cách gia đình, sức khỏe suy kém, có bệnh tật hoặc ở mắt, hoặc ở bộ sinh
dục, lại hay mắc tai nạn, hay mắc thị phi kiện cáo, và khó tránh thoát được sự
cầm hãm trói buộc.
+ Cự hãm địa là
người kém thông minh, gian quyệt, tham lam, khắc nghiệt, đa nghi, không cẩn
ngôn, hay nói khoác lác, không thích giao thiệp rộng nên ít bạn bè, suốt đời vất
vả, có nhiều bệnh tật, thường mắc thị phi, kiện cáo, tù tội hay mắc tai nạn, nếu
không sớm ly tổ, tất không thể sống lâu được.
+ Cự hãm địa,
Thìn, Tuất rất mờ ám xấu xa, nhưng đối với tuổi Qúy, Tân lại thành sáng sủa tốt
đẹp, vì có sự ứng hợp. Vậy, cho nên tuổi Qúy, Tân mà cung Mệnh an tại Thìn, Tuất,
có Cự tọa thủ là người thông minh, được hưởng giàu sang và chẳng đáng lo ngại
nhiều về sự chẳng lành xảy đến trong đời.
+ Cự hãm địa,
Thìn, Tuất đối với tuổi Đinh, Canh lại càng mờ ám xấu xa, vì có sự khắc hãm. Vậy
cho nên tuổi Đinh, Canh mà cung Mệnh an tại Thìn, Tuất, có Cự tọa thủ, thật là
khổ sở, khốn đốn đến cùng cực.
+ Cự hãm địa, Sửu,
Mùi rất mờ ám xấu xa, nhưng đối với tuổi Ất, Bính, Tân lại thành sáng sủa tốt đẹp,
vì có sự ứng hợp. Vậy cho nên tuổi Ất, Bính, Tân mà cung Mệnh an tại Sửu, Mùi
có Cự tọa thủ, là người thông minh, học rộng, hiển đạt, khá giả và chẳng đáng
lo ngại nhiều về bệnh tật, hay tai ương họa hại bất kỳ.
+ Cự hãm địa, gặp
nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu,
Khoa, Quyền, Lộc là người hiểu biết sâu rộng, cũng có văn tài, ăn nói khôn
ngoan đanh thép, thường hoạt động chính trị, hay làm thầy giáo và cũng được hưởng
giàu sang.
+ Cự hãm địa gặp
Lộc, Tuế hội hợp, nên đi buôn.
+ Cự hãm địa gặp
nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp nhất là Sát tinh, Kỵ, Hình, thật chung thân cùng
khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, có bệnh tật khó chữa, hoặc ở mắt, hoặc ở
bộ sinh dục, hay mắc những tai nạn khủng khiếp, chân tay thường bị vướng vào
xích xiềng và chắc chắn là yểu tử, nhưng chết một cách thê thảm.
+ Cự, dù Miếu địa,
Vượng địa, đắc địa hay hãm địa, gặp Kỵ đồng cung, tất không thể tránh thoát được
những tai nạn hoặc về sông nước hoặc về xe cộ.
Những
Bộ Sao Tốt
Cự Môn, Thái
Dương đồng cung ở Dần: Vinh hiển và danh giá suốt ba đời (ông, cha, mình). Nếu ở
Thân thì không bằng ở Dần, chỉ khá giả mà thôi, trước có công danh, sau mới có
tiền bạc.
Nếu thêm Quyền,
Phượng: Sự tốt đẹp tăng thêm, tuy nhiên, nếu gặp Lộc Tồn thì lại xấu suốt đời bất
đắc chí, đời lông bông, hao tán của cải, chơi bời lang thang.
Mệnh được Cự Nhật
đồng cung chiếu: Cũng được tốt đẹp như Cự, Nhật tọa thủ.
Cự Cơ ở Mão và Dậu:
Có quan chức lớn, tài lộc dồi dào (đại phú). Ở Dậu thì kém hơn ở Mão. Đặc biệt
bốn tuổi Ất, Kỷ, Bính, Tân thì càng thịnh đạt và cả hai mặt phú và quí.
Nếu có thêm Đại,
Tiểu Hao: Rất giàu có và uy quyền, danh tiếng lừng lẫy, nhưng tính tình phóng
đãng, ăn tiêu hoang phí.
Cự Khoa ở Thìn
Tuất: Có biệt tài về ăn nói, có khả năng du thuyết.
Tuổi Tân, Mệnh ở
Tứ Mộ, Cự tọa thủ: Vẫn khá giả dù Cự hãm địa. Nếu thêm Tả, Hữu, tai họa bị chiết
giảm đi nhiều, dù cho có Hóa Kỵ đồng cung.
Những
Bộ Sao Xấu
Cự hãm, Kình,
Đà: Người yếu đuối, bị bệnh nan y. Nếu không bệnh thì trộm cắp, đàng điếm, phá
hoại; nữ thì lăng loàn.
Cự Hỏa Linh: Rất
xấu, có thể bị chết thảm nếu hạn xấu.
Nếu thêm Kình
hay Đà: Có thể tự tử bằng cách tự trầm hay thắt cổ. Nếu không chân tay bị tàn tật,
phỏng nặng, làm bếp, nội trợ giỏi.
Cự ở Tý Ngọ gặp
Lộc Tồn đồng cung: Có học, có tài nhưng bất đắc chí vì không gặp thời.
Cự ở Hợi Tý gặp
Lộc Tồn đồng cung: Không phát huy được tài năng, dù được Lộc Quyền hội họp. Đây
là trường hợp một người có cao vọng nhưng bất toại chí.
Nữ mệnh có Cự Kỵ:
Con gái thì thất trinh, đàn bà thì thất tiết.
Cự Tham Hao, Cự
Tham Riêu: Hạn ở nhà, ngồi tại chỗ thất nghiệp, bị tù tội, bị thưa, bị phạt tiền
do sai phạm trong công việc, hạn gặp chuyện phiền nhiễu.
Cự Môn ở Cung Phụ Mẫu
- Bất cứ tại vị
trí nào, cha mẹ cũng bất hòa. Trong nhà có sự tranh chấp.
- Đơn thủ tại Hợi,
Tý, Ngọ: cha mẹ giàu sang, nhưng không hợp tính với con.
- Đơn thủ tại Tỵ:
hai thân thường xa cách nhau. Nếu không, cũng sớm khắc một trong hai thân.
- Đơn thủ tại
Thìn, Tuất: cha mẹ bỏ nhau, hay một còn một mất từ lúc con còn ít tuổi.
- Nhật đồng cung
tại Dần: hai thân giàu có, qúy hiển và sống lâu, lợi ích cho cha nhiều hơn cho
mẹ.
- Nhật đồng cung
tại Thân: hai thân vất và, sớm khắc một trong hai thân. Nên làm con nuôi họ
khác.
- Đồng đồng
cung: sớm xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí. Có đi xa hay làm con nuôi
họ khác mới tránh được mọi sự hình khắc. Nhưng dù sao chăng nữa, ít nhất là phải
sớm lìa bỏ một trong hai thân.
- Cơ đồng cung:
sớm khắc một trong hai thân. Nên phải xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí.
Cự Môn ở Cung Phúc
Đức
- Cự
Môn: mộ bác ruột, nếu lúc sinh ra đời, bác đã khuất bóng hay là mộ ông bác (bên
nội) nếu bác còn, ông bác đã mất. Đất vuông vắn, thường ở gần đình sở hay lâu
đài, đào sâu, thấy ở dưới có lớp đất màu vàng.
- Đơn thủ lại Hợi,
Tý, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu, về già rất sung sướng. Họ hàng giàu có qúy
hiển.
- Đơn thủ tại Tỵ,
Thìn, Tuất: giảm thọ. Suốt đời lao tâm khổ tứ chẳng được xứng ý toại lòng,
lại hay mắc tai
nạn khẩu thiệt, kiện cáo. Phải sớm xa gia đình mới mong được yên thân. Trong họ
thường có sự
tranh chấp, nhiều người phiêu bạt giang hồ, nếu không, cũng khốn cùng, mắc hình
ngục, hay yểu tử.
- Tọa thủ tại Dần,
Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ: được hưởng phúc, sống lâu và sung sướng. Họ hàng qúy hiển,
giàu sang, có danh giá và uy quyền tế thế.
- Tọa thủ tại
Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý: bạc phúc nên tuổi thọ bị chiết giảm. Suốt đời chẳng
được xứng ý toại lòng. Nên ly tổ hay ở xa gia đình. Họ hàng càng ngày càng sa
sút ly tán, có nhiều người gian quyệt nhưng bần cùng, có người phiêu bạt giang
hồ, lại có người mang ác tật hay mắc tai nạn chết một cách thê thảm
- Đồng đồng
cung: giảm thọ, suốt đời vui ít buồn nhiều, hay mắc tai nạn, khẩu thiệt, kiện
cáo. Phải ly tổ,
xa gia đình mới mong được yên thân. Họ hàng ly tán, thường tranh chấp lẫn nhau.
- Cơ đồng cung:
tuy được hưởng phục, nhưng lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng. Về già
hay gặp may mắn. Họ hàng khá giả.
Cự Môn ở Cung Điền
Trạch
- Hay mắc thị
phi, kiện cáo về nhà đất.
- Đơn thủ tại Hợi,
Tý, Ngọ: có tổ nghiệp để lại, nhưng không được thừa hưởng. Tự tay gây dựng ở xa
quê hương. Về sau mua tậu được nhiều nhà đất.
- Đơn thủ tại Tỵ,
Thìn, Tuất: không có nhà đất. Nếu có cũng rất ít, rất nhỏ mọn, tầm thường.
- Đồng đồng
cung: không có nhà đất, về già may mắn lắm mới có một chốn nương thân.
- Nhật đồng cung
tại Dần: giữ vững được tổ nghiệp. Về sau mua tậu thêm được nhiều nhà đất.
- Nhật đồng cung
tại Thân: buổi đầu phá tán tổ nghiệp, hay phải lìa bỏ tổ nghiệp. Về già mới có
nhà đất. nhưng rất ít.
- Cơ đồng cung tại
Mão: rất nhiều nhà đất, một phần là của tổ nghiệp để lại.
- Cơ đồng cung tại
Dậu: phá tán tổ nghiệp, hay lìa bỏ tổ nghiệp. Tự tay gây dựng, nhưng cũng không
có nhiều nhà đất.
Cự Môn ở Cung Quan
Lộc
- Đơn thủ tại
Tý, Ngọ: văn võ kiêm toàn, làm thầy giáo cũng nổi tiếng, có nhiều tài năng, nhất
là ăn nói và tổ chức. Không những thế lại còn sẵn mưu trí nữa. Được hưởng phú
qúy lâu bền, được nhiều người kính trọng vị nể.
- Đơn thủ tại Hợi:
công danh sớm đạt, nhưng không nên trèo lên cao nhiều quá.
- Đơn thủ tại Tỵ:
công danh trắc trở, chức vị nhỏ thấp, hay gặp tai ương.
- Đơn thủ Thìn,
Tuất: công danh trước nhỏ, sau lớn, hay phải thay đổi công việc. Có tài xét
đoán, luận lý và ăn nói hùng hồn nhưng thường gặp nhiều chuyện thị phì, hay có
người gièm pha oán trách.
- Đồng đồng
cung: rất chật vật trong đường công danh, phải nhờ người trên dìu dắt, giúp đỡ,
hay mắc thị phi hình sự.
- Nhật đồng cung
tại Dần: công danh hiển hách. Nên chuyên về hình luật, vì có tài luận lý, xét
đoán.
- Nhật đồng cung
tại Thân: công danh thăng giáng thất thường, hay mắc thị phi quân sự. Về già mới
được xứng ý toại lòng.
- Cơ đồng cung:
văn võ toàn tài nhưng hưởng phú qúy vững bền. Có nhiều mưu trí và rất ưa thích
máy móc.
Cự Môn ở Cung Thiên
Di
- Đơn thủ tại
Tý, Ngọ, Hợi: ra ngoài được nhiều người vị nể, tài lộc di kiếm, lời nói được
nhiều người tin phục.
- Đơn thủ tại
Thìn, Tuất, Tỵ: hay mắc thị phì kiện tụng và tai nạn nguy hiểm, sau này chết ở
xa nhà.
- Cự Môn, Thái
Dương đồng cung tại Dần, Thân thì ra ngoài được quý nhân giúp đỡ, mọi người
kính nể, tài lộc hưng vượng.
- Cự Môn, Thiên
Cơ đồng cung thì ra ngoài khá giả, đi buôn bán thì giàu có nhưng hay bị miệng
tiếng.
- Cự Môn, Thiên
Đồng đồng cung thì hay được gần quý nhân, nhưng hay bị chê bai.
Cự Môn ở Cung Tật
Ách
- Bệnh ở hạ bộ,
mặt thường có vết, lúc ít tuổi có nhiều mụn nhọt.
- Nhật đồng
cung: hình dáng kỳ dị.
- Kình, Hỏa đồng
cung: bệnh do tửu sắc gây nên.
- Kỵ đồng cung:
chết đuối.
- Cự, Cơ đồng
cung thì hay có bệnh về khí huyết.
Cự Môn ở Cung Tài Bạch
- Đơn thủ tại Hợi,
Tý, Ngọ: tay trắng lập nghiệp, hoạnh phái tiền tài, nhất là trong lúc náo loạn,
cạnh tranh.
- Đơn thủ tại Tỵ,
Thìn, Tuất: tiền tài tụ tán thất thường, hay túng thiếu và thường mắc thị phi,
kiện tụng vì tiền.
- Nhật đồng cung
tại Dần: giàu có lớn, dễ kiếm tiền.
- Nhật đồng cung
tại Thân: vất vả mới kiếm được tiền, phải gặp thời loạn hay phải đi ngang về tắt
mới kiếm được đủ tiêu dùng, về già mới sung túc.
- Đồng đồng
cung: tiền tài tụ tán thất thường nhưng hay túng chiếu và thường mắc thị phi,
kiện tụng vì tiền. Có xa nhà hay lưu lạc nơi đất khách quê người mới phát đạt.
- Cơ đồng cung:
kinh doanh, hoạt động, cạnh tranh ráo riết mà trở nên giàu có.
Cự Môn ở Cung Tử Tức
- Đơn thủ tại Hợi,
Tý, Ngọ: từ năm con trở lên. Con sớm xa cha mẹ.
- Đơn thủ tại Tỵ,
Thìn, Tuất: may mắn lắm mới có hai con. Sinh nhiều, nuôi ít. Con lớn lên cũng
không hiển đạt. Thường xung khắc với cha mẹ. Trong nhà thiếu hòa khí.
- Coi Thái Dương (Cự đồng cung tại Dần; Cự đồng
cung tại Thân) – Thiên Đồng (Cự đồng
cung) – Thiên Cơ (Cự đồng cung).
Cự Môn ở Cung Phu
Thê
- Đơn thủ tại
Tý, Ngọ, Hợi: vợ chồng đẹp đôi, đều qúy hiến, nhưng hay bất hòa.
- Đơn thủ tại Thìn,
Tuất, Tỵ: vợ chồng bỏ nhau, trai hay gái đều hai hay ba lần lập gia đình.
- Đồng đồng
cung: bỏ nhau, nếu không cũng phải xa cách rất lâu rồi mỏi đoàn tụ, vợ chồng rất
thông minh.
- Nhật đồng cung
tại Dần: vợ chồng hay có sự bất hòa, nhưng chung sống được với nhau trong cảnh
giàu sang cho đến lúc mãn chiều xế bóng.
- Nhật đồng cung
tại Thân: muộn lập gia đình, may ra mới tránh được sự chia ly.
- Cơ đồng cung:
trai vợ đẹp, giàu sang, thao lược, gái lấy chồng tài giỏi, có danh chức. nhưng
nên muộn đường hôn phối. Nếu không tất hay xảy ra những sự tranh chấp bất hòa,
dễ đi đến chỗ chia ly.
Cự Môn ở Cung Huynh
Đệ
- Đơn thủ tại Hợi,
Tý, Ngọ: hai người, nhưng bất hòa.
- Đơn thủ tại Tỵ,
Thìn, Tuất: may mắn lắm mới có một người, nên ở riêng. Nhưng đôi khi lại có
thêm rất nhiều anh chị em dị bào.
- Đồng đồng
cung: may mắn lắm mới có hai người, trong nhà thiếu hòa khí, anh chị em có sớm
xa cách nhau mới được toàn vẹn, có người mang cố tật hay mắc hình ngục.
Cự Môn ở Cung Nô bộc
Cung Nô Bộc có
sao Cự Môn: Thông thường người giúp việc, bạn bè hay nói xấu, oán trách, hay
gây sự thị phi.
Cự Môn ở cung
hãm địa: Bị phản bội.
Cự Môn ở Hạn
- Sáng sủa tốt đẹp,
là Quyền tinh: mưu sự được toại lòng, hoạnh phát danh tài, nói được
nhiều người nghe
theo, nếu mắc kiện cáo hay tranh chấp với người khác thì cũng thắng lợi. Nên
chú
ý, trong trường
hợp Cự nhập Hạn tại Hợi, gặp Lộc tất không nên mưu những việc quá lớn. Nếu nuôi
nhiều cao vọng
như “ném kiếm lên sao Đẩu, sao Ngưu” chắc chắn là phải thất bại đau đớn.
- Mờ ám xấu xa:
hay phiền lòng, mắc khẩu thiệt, thị phi, kiện cáo, hao tán tiền tài, đau yếu,
có tang, nếu có quan chức tất bị bãi truất. Rất đáng lo ngại về tai nạn xe cộ nếu
Cự nhập Hạn tại tại Tứ Mộ. Trong trường hợp này, nếu gốc đại hạn mười năm cũng
xấu xa mờ ám, phải quyết đoán là chết.
- Kỵ: tai nạn
sông nước, khẩu thiệt, thị phi.
- Tang: đau ốm nặng,
có tang lớn.
- Tang, Hỏa,
Linh: đau ốm, tán tài, có tang, nếu không nhà bị cháy (cung nhập Hạn ứng phương
nào tất cháy từ phương đó).
0 comments: