Sunday, October 25, 2015

Tìm hiểu về cung nô bộc trong lá số tử vi

by Tử Vi Toàn Tập  |  in Cung Nô Bộc at  7:58 PM
THỬ TÌM HIỂU VỀ CUNG NÔ BỘC

Phong Nguyên

Bài viết thể thiện quan điểm của tác giả Phong Nguyên, Còn quan điểm của các bạn thì sao? Hãy bày tỏ quan điểm bằng cách bình luận ngay nhé.


Thường thường đoán Tử-Vi của một người, ít ai chú trọng nhiều đến cung Nô Bộc, mà chỉ mổ xẻ tỉ mỉ các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc … thậm chí các sách vở Tử-Vi cũng chỉ bàn rất sơ lược về cung Nô Bộc, vì cung này không được coi là cường cung. Nhưng theo kinh nghiệm của một số người giỏi Tử-Vi mà tôi đã có dịp tham khảo ý kiến, thì khi luận đoán về công danh, sự nghiệp, uy quyền của một người rất cần chú trọng tới cung Nô, ngoài các cường cung thường lệ, mới tránh được những sai lầm nặng nề.

Ngoài ra, nhiều người lại cho rằng cung Nô Bộc bao gồm luôn cả bạn bè, nhưng theo thiển ý thì cung Thiên Di và cung Quan Lộc mới chỉ giới này, còn cung Nô chỉ liên quan đến người dưới quyền, đầy tớ, gia nhân, vợ nhỏ ... mà thôi. Và nếu có khi xét cung Nô mà đoán đúng được một khía cạnh nào đó về bạn bè, thì chắc hẳn những người này trước kia cũng chỉ thuộc vào nhóm dưới quyền rồi về sau nhờ may mắn hoặc cố gắng mà trở thành ngang hàng với đương số. Tôi sẽ xin bàn tới cung Thiên Di và Quan Lộc trong một bài khác. Sở dĩ tôi phải nêu ra điểm này là để tránh một vài ngộ nhận, hiểu lầm về những điều tôi trình bày dưới đây về cung Nô Bộc.

Với ý niệm như trên, tôi xin thử đưa ra những tiêu chuẩn bổ túc để giải đoán cung Nô Bộc mà tôi hy vọng có thể giúp qúy bạn đoán được công danh, sự nghiệp chính xác hơn. Và để cho đỡ khô khan và dễ hiểu, tôi xin nêu ra nhiều thí dụ tiêu biểu.

1- Trường hợp cung Nô tốt hơn cung Mệnh

Trước hết, tôi cần nói là để cho giản dị, tôi chỉ nêu ra chữ Mệnh chứ thực ra phải phối hợp với các cung Tài, Quan, Di, cũng như xem cung Nô phải phối hợp với các cung Huynh-Đệ, Tử-Tức và Phụ-Mẫu chiếu về. Ngoài ra, đã nói đến Mệnh thì “Thân” cũng phải chú trọng tới.

Một lần có một anh bạn thân, cũng biết sơ về Tử-Vi, đưa cho tôi coi giúp lá số của anh ta và phàn nàn rằng lá số của anh có lẽ trật, vì cung Nô Bộc của anh rất tốt mà cho tới ngày nay gần 40 tuổi rồi vẫn chẳng được điều khiển một ai cả. Hiện tại anh đang làm thư ký đánh máy cho một hãng ngoại quốc, từ khi di cư đến giờ. Trong phòng anh làm, anh coi như là ở cấp thấp nhất, ngoại trừ mấy người tùy phái. Nhìn cung Nô Bộc của anh có Tử-Vi (cư Ngọ), tức là có cách Tử Phủ Vũ Tướng do các sao hợp chiếu tạo thành, lại hội nhiều trung tinh quyền qúy khác mà tôi xin miễn kể ra cho khỏi rườm, hèn chi anh chẳng cho là tốt, nếu chỉ xét tới sao trên.

Nhưng anh ấy không để ý đến Mệnh qúa kém, có Cự-Đồng hãm địa tại Sửu hội nhiều hung tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp) cũng hãm địa, còn “Thân” và Tài, Quan, Di cũng không có gì tốt, như vậy làm thư ký được là may rồi. Các nhà Tử-vi gọi trường hợp này là “hữu quân vô tướng” (có quân mà không có tướng), tức là cung Nô tốt hơn cung Mệnh. Cung Nô như vậy là phản cách, vô lý, cho nên chẳng dùng được khía cạnh nào. Phải chi Mệnh có cách gì hơn hay cùng nữa là bằng (kể ra khó được như vậy vì Tử Phủ Vũ Tướng với Tử-Vi cư Ngọ là cách trội nhất rồi) thì công danh tột đỉnh, mình vừa giỏi vừa có những người dưới quyền tài ba lỗi lạc, thật còn gì bằng. Nếu Mệnh kém một chút (huống chi lại kém hẳn như trường hợp anh bạn tôi) cũng đã bất hạnh rồi, vì mình chỉ là bù nhìn, kẻ dưới quyền đặt mình ở cương vị nào hay dẹp bỏ chức vụ của mình đi cũng phải chịu. Đó là chưa kể những tai họa đau đớn có thể xảy ra cho mình do người dưới quyền gây ra, nếu Mệnh của mình có những sao tác hại.

Do đó, trong mọi trường hợp, ta đừng bao giờ ham cung Nô qúa tốt nếu mình muốn làm lớn. Theo kinh nghiệm riêng của tôi, thì tối kị cung Nô có cách Tử Phủ Vũ Tướng (dù hãm địa), nhất là khi có thêm trung tinh quần tụ, vì ít khi Mệnh của mình có cách trội hơn.
Nhân tiện tôi xin nói thêm là tôi đã có dịp được coi lá số của một người ăn xin cũng có cung Nô với cách đó. Và nhóm nghiên cứu Tử vi chúng tôi thường nói đùa với nhau là có lẽ những người bố thí quyền quý đều là nhưng người dưới quyền của người ăn xin hay chăng (Tôi sẽ trở lại điểm này trong một bài khác).

2- Trường hợp cung Nô xấu, nhưng cung Mệnh tốt

Trong trường hợp này các nhà Tử-Vi thường gọi là “hữu tướng vô quân” (có tướng mà không có quân) và cũng cho rằng như thế là công danh bất hiển, giống như cách “hữu quân vô tướng”. Nhưng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp này không thể quyết đoán một cách máy móc như thế được. Tôi đã bị lầm lẫn khá nhiều lần khi luận đoán theo quy tắc đó, và xin nêu ra hai ví dụ để quý bạn hiểu rõ hơn:

– Có một Bà Dược Sĩ đến nhờ tôi coi Tử-Vi xem sự nghiệp ra sao. Tôi thấy Mệnh của bà rất tốt, nào là Khôi, Việt, Quan, Phúc, Long, Phượng, Riêu Y, Thái Tuế, Xương Khúc, Hóa Khoa, nào là Ngũ Hành tương sinh,… nhưng cung Nô có Thiên Đồng hãm địa hội Không, Kiếp, Kị, Phục … (tôi không nêu tỉ mỉ các sao, vì mục đích của bài này là đưa ra tiêu chuẩn) cho nên tôi vội kết luận là bà ta cũng chẳng có sự nghiệp gì lớn. Nhưng trên thực tế bà ta rất giàu có, hai ba tiệm thuốc tây ở Sài Gòn và còn có ở một hai tỉnh nữa. Đó là bà ta khoe như vậy để gián tiếp “cho” là tôi đoán ẩu. Tuy nhiên bà ta cũng công nhận là những người bán hàng thuốc của bà đều gian tham, trộm cắp hoài, nay đổi người này mai đổi người khác, nhưng sự nghiệp của bà cũng không vì thế mà suy kém.

– Một lần khác, có người bạn làm chung sở, nhờ tôi coi giùm lá số của ông anh ruột hiện làm Bác Sĩ Quân Y. Vì là chỗ thân tình nên anh ta nói luôn ngay nghề nghiệp của người anh để đỡ mất công giải đoán của tôi, đồng thời cũng là để xác định ngay với tôi là lá số đúng giờ. Anh ta chỉ cần hỏi là sự nghiệp của người anh sẽ ra sao, có bền vững hay không, có nhiều tiền hay không, vì người anh không có cao vọng. Nhìn cung Mệnh có Thiên Lương hội Quan Phúc, Riêu Y, Kình, Hỷ, Khoa Quyền Lộc … tôi công nhận là đúng giờ sinh. Còn cung Nô thì toàn là sao xấu, nào là Hỏa Linh, Không Kiếp, Phục, Tử, Tuyệt, Kiếp Sát … tôi liền đoán là công danh bất hiển. Nhưng về sau mới biết là sai lầm qúa nhiều, vì làm Bác Sĩ đâu có cần nhiều người dưới quyền giỏi. Cung Nô lúc đó ứng vào bệnh nhân. Thực thế, vị Bác Sĩ này toàn chữa cho thương bệnh binh, người què, người cụt, người bị cháy thịt, phỏng da, nhưng vị Bác Sĩ này rất mát tay (nhờ có Hỷ Thần tại Mệnh); ít khi không chữa nổi bệnh nhân.

Qua hai ví dụ nêu trên, ta thấy rằng đối với những người hành nghề chuyên môn thường thường không cần phải cung Nô tốt (lẽ dĩ nhiên tốt vẫn hơn nhưng không được hơn Mệnh) vì những người dưới quyền đâu cần nhiều và đâu cần tài ba lỗi lạc, nếu họ có kém cỏi hoặc lưu manh chăng nữa thì mình cũng chỉ bực mình và phải thận trọng thôi, chứ sự nghiệp đâu có bị ảnh hưởng trực tiếp). Tuy nhiên, những người hành nghề chuyên môn muốn có địa vị cao trong chính quyền, nếu có cung Nô xấu như trên thì chỉ nên đeo đuổi nghề của mình mới mong vững bền và giàu có. Và do đó trường hợp “hữu tướng vô quân” sẽ rất ứng nghiệm đối với những người đeo đuổi chức phận cao trong chính quyền, nhất là về phương diện quân sự và chính trị. Tôi đã từng được coi nhiều là số của một số sĩ quan “ngồi chơi xơi nước” chỉ có hai ba người lính dưới quyền và chẳng có ai nể vì, lại hay lên lon cũng chỉ vì bị cách “hữu tướng vô quân”.

3- Tương quan giữa các sao của Cung Nô và các sao Cung Mệnh

Trong hai phần (1) và (2) trên đây, tôi chỉ nêu ra vấn đề xấu tốt của cung Nô và cung Mệnh, còn trong phần này tôi xin bàn đến sự “ăn khớp” giữa các sao của cung Nô và các sao của cung Mệnh, một điểm không kém phần quan trọng.

Thí dụ : Một người Mệnh có Khôi Việt, Xương Khúc, Quan Phúc, Hóa Khoa, Tấu Thư chẳng hạn, tức là có năng khiếu về văn chương, có tâm hồn thi sĩ … nếu cung Nô có : Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Sát Phá Tham thì làm sao mà thầy trò có thể hòa hợp, ăn ý với nhau, vì loại người dưới quyền này chỉ thích đâm chém, du đãng, trộm cắp … Ngược lại cũng vậy, một người Mệnh có các sao chỉ thích buôn lậu lớn (thí dụ như Nhật-Nguyệt hãm địa hội Không Kiếp, Tả Hữu chẳng hạn) mà cung Nô có toàn sao hiền lành như Quan Phúc, Thai Tọa, Bộ Tứ Đức, Hóa Khoa … thì làm sao có thể thực hiện được khuynh hướng của mình, và nếu xoay sang chiều hướng khác thì nhất định là kém, thất bại dễ dàng. Do đó nếu có sự “tréo cẳng ngỗng” giữa Nô & Mệnh như vậy thì đương nhiên công danh, sự nghiệp (lương thiện cũng như bất hợp pháp) khó đạt được. Còn về trường hợp có sự kết hợp mật thiết giữa Nô & Mệnh tôi thấy khỏi cần nêu ra thí dụ, vì qúy bạn thừa sức suy luận, trường hợp đó đương nhiên là thuận lợi cho sự nghiệp.

Tuy nhiên, những trường hợp “ngược” như trên không có nhiều. Theo kinh nghiệm, tôi thấy các cung trong một lá số thường có một cách bố cục rất ăn khớp với nhau, vì nếu các sao không có môi trường để hoạt động theo cương vị của mình thì làm sao mà đoán được đường hướng, sự nghiệp của một đời người.

4- Tương quan giữa Ngũ hành của các sao thuộc Cung Nô và của Cung Nô với Ngũ Hành của bản Mệnh

Nói chung, khi xét đến cung Nô, nếu chỉ lưu tâm đến những sao tốt, sao xấu thì vẫn chưa được chính xác, vì cũng một sao nếu sinh được bản Mệnh của mình thì khác hẳn với trường hợp khắc bản Mệnh mình hoặc được bản Mệnh mình sinh. Có một lần tình cờ tôi được coi hai lá số khác nhau về năm, tháng, ngày, giờ nhưng các cung lại có các sao được bố cục gần như giống nhau. Đây tôi chỉ nói về cung Nô. Tôi hãy còn nhớ một người Mạng Hỏa và một người mạng Mộc. Hai người khả năng gần như ngang nhau, nhưng người mạng Mộc chức vụ cao hơn nhiều và có uy quyền. Thật tôi không ngờ chỉ vì một yếu tố Ngũ Hành mà công danh chênh lệch như thế. Cung Nô của hai người cùng có Thiên Đồng & Thái Âm (thuộc Thủy), do đó chỉ có người mạng Mộc được hưởng hai sao đó. Ngoài ra thường thường Thái-Âm hay Thái-Dương chiếu Nô thì người dưới không trung thành, đói thì tìm đến, no thì bỏ đi (Sách có nói là cách “cơ lai bão khứ” và “Con em xa khứ xa hoàn, bởi vì Nhật Nguyệt đóng miền Nô cung”). Nhưng đối với người mạng Hỏa thì đúng, còn đối với người mạng Mộc thì người đó cho tôi biết là đàn em của ông ta chỉ thay đổi nhiều vì bị thuyên chuyển, chứ không hề vì chán ghét đàn anh và bất cứ người nào tới cũng đều phục vụ ông ta hết mình.

Còn vấn đề mạng mình khắc hoặc sinh hoặc hòa với các sao của cung Nô thì ra sao?

A- Bản Mạng khắc sao (chỉ nên nói chính tinh) cung Nô

Nhiều vị giỏi Tử-Vi thường nói với tôi rằng đa số những người coi Tử-Vi đều ngại mạng khắc sao, nhưng thực ra riêng đối với trường hợp cung Nô thì như thế lại cũng hay, vì mình dễ sai khiến được người dưới quyền, dễ làm chủ tình hình, ít khi bị làm bù nhìn, nhất là khi mạng mình lại tốt hơn. Tôi còn nghiệm thấy ngay cả trường hợp mạng ngang với Nô mà vẫn còn uy quyền thực sự đối với người dưới quyền, khi mạng mình khắc các sao cung Nô.

Tuy nhiên, nếu được các sao cung Nô sinh mạng mình vẫn tốt hơn nhiều, vì bao giờ người dưới quyền tự ý phục vụ mình cũng hay hơn là sợ hãi mình mà thi hành chỉ thị của mình. Quý bạn cũng nên để ý điểm nào không thể áp dụng với cung Thê hoặc Phu (mà tôi đã bàn đến trong bài “Hạnh phúc vợ chồng qua cung Phối” đã đăng trong KHHB)

B- Bản Mạng sinh sao cung Nô (sinh xuất)

Gặp trường hợp này gần như chắc chắn là bất lợi cho mình, trừ phi mạng mình có các sao trội hơn nhiều, vì không còn gì nhu nhược cho bằng người trên cứ phải làm theo ý muốn của người dưới quyền, phải chìu lụy họ. Tệ hại nhất là nếu cung Nô có thêm Hóa Quyền chẳng hạn thì thực mình chỉ là tôi tớ cho người dưới quyền, nếu có Song Lộc tức là mình bợ đỡ họ chỉ vì tiền. Còn gặp trường hợp mạng mình trội hơn nhiều và có thêm các sao cứng rắn, uy quyền (như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham Vũ hội Khoa Quyền Lộc …) thì hết bất lợi, vì như thế tức là mình giúp đỡ được cho đàn em hữu hiệu khiến cho họ trở nên người khá giả thêm tài năng (nhất là trong trường hợp cung Nô có các sao như Long Phượng, Quang Qúy, Xương Khúc, Thanh Long ….) nhưng dù sao mình cũng phải mất mát về tiền bạc, thời giờ, tinh thần khá nhiều.

5- Bản Mạng tỵ hòa với các sao cung Nô

Trường hợp này hoàn toàn bị chi phối bởi các sao cung Nô và các sao cung Mệnh. Nếu Nô tốt hơn là mình khó chỉ huy và Nếu Mệnh tốt hơn là mình có quyền uy. Còn hai cung tương đương thì hai bên đều làm việc theo bổn phận và trách nhiệm.

Riêng về Ngũ hành của cung Nô đối với bản Mệnh, tôi chỉ xin nêu ra một điều khác biệt là cung Nô chỉ chung tất cả những người dưới quyền, còn các sao tiêu biểu cho từng nhóm, từng người (Thí dụ như Đồng Âm là một nhóm, Long Phượng Hổ Cái là một nhóm, Cơ Lương là một nhóm …). Như vậy là trong trường hợp cung Nô khắc Mạng mình thì xấu hơn là các chính tinh Nô khắc Mạng mình, vì tất cả tập thể người dưới quyền không ưa mình (nhất là thêm Hóa Kỵ, Nhật Nguyệt, Không-Kiếp) thì làm sao mình làm việc nổi, còn như chính tinh khắc thì mình vẫn có thể gặp được nhóm người khác đắc lực, trung thành hơn. Còn các trường hợp khác (Mạng sinh cung Nô, khắc cung Nô, được cung Nô sinh …. ) Các bạn cứ việc suy theo các điểm sinh khắc theo sao kể trên là hiểu ngay.

6- Các chính tinh tại cung Nô nên đắc địa hay hãm địa ?

Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam, khi còn sinh tiền có cho tôi biết rằng các chính tinh (không cần xét tới trung hay bàng tinh cho bớt phức tạp) tại cung Nô cần hãm địa hơn là đắc địa, vì người dưới giỏi hơn cấp trên không hay. Chính trong cuốn Tử-Vi của Cụ cũng có nêu ra như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm của một số nhà Tử-Vi thì không hẳn phải như vậy mới hay, vì không bao giờ chỉ xét riêng cung Nô mà không so sánh với cung Mệnh. Thực thế, tôi nghiệm thấy rằng khi Mệnh có thượng cách (thí dụ như Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa hội các trung tinh Long Phượng, Quang Qúy, Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu ….) thì rất cần có cung Nô hội các sao đắc địa ngoài các yếu tố khác. Có được như vậy thì người dưới quyền mới nhiều khả năng, đắc lực, phục vụ hữu hiệu cho cung Mệnh, nếu không thượng cách của cung Mệnh sẽ không có môi trường họat động. Hơn nữa, nếu được các chính tinh cung Nô sinh bản Mệnh thì cần đắc địa, để cho các tài năng của người dưới hòan tòan được sử dụng cho cấp trên.

Như vậy không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn ý kiến của Cụ Song An (vì thực ra cụ có cho tôi biết là hầu hết căn bản Tử vi của cụ đều theo sách Tàu, nhờ cụ biết chữ nho giỏi). Lẽ dĩ nhiên khi Mệnh không được trội mấy thì cung Nô cần có các chinh tinh hãm địa hay bị Tuần Triệt án ngữ để bớt sự lấn áp cấp trên.

Thí dụ Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa mà cung Nô có cách Sát Phá Tham Vũ thì rất cần các sao này hãm địa để có sự tương xứng (vì cách Sát Phá Tham Vũ coi như mạnh hơn cách Cơ Nguyệt Đồng Lương). Nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy có điều bất lợi là người dưới quyền thường thiếu khả năng hay làm hỏng việc, nhất là trong trường hợp liên quan đến kỹ thuật, chuyên môn. Tôi có một người bạn làm quản lý cho một hãng cũng có trường hợp này, nên tối ngày anh ta than là mệt, vì người dưới không làm tròn bổn phận và ít khi anh tuyển dụng được nhân viên đúng với công việc đòi hỏi. Anh ta có nói là: Thà anh phải chiều lụy người dưới để cho công việc được điều hòa, còn hơn họ kém cấp trên qúa nhiều. Ý anh muốn nói về phương diện Tử-vi là: “ Thà các sao ở cung Nô đắc địa và trội hơn Mệnh của anh còn hơn” .


7- Vị trí cung Nô

Tôi cố ý đặt mục (7) này ở phần chót vì trường hợp này rất hiếm có và rất tốt. Thật vậy, tôi mới chỉ gặp có một Lá số có trường hợp này. Đó là cung Nô nằm đúng vào cung tuổi của mình. Ví dụ như tuổi Dậu mà có cung Nô ở cung Dậu. Có thể nói là bất cứ ai có cung Nô ở vị trí như vậy đều có công danh và có nhiều người dưới quyền đắc lực, vẫn biết còn tùy theo nhiều yếu tố khác. Nhưng tôi quan niệm rằng khi đã được cung Nô nằm đúng cung tuổi của mình thì gần như chắc chắn các yếu tố khác được bố cục thuận lợi cho mình, ít nhất là về phương diện công danh, uy quyền. Ngoài ra, riêng về tuổi Dậu này, cung Nô lại chiếu về (Nhị-Hợp) cung Mệnh (ở Thìn) cho nên còn làm tăng thêm sự phục vụ đắc lực, và còn có tình thương mến, kính trọng cấp trên. Quý bạn cũng cần lưu ý một điểm là không phải cứ cung Nô cư ngay cung tuổi mình là đều chiếu mệnh nhị hợp.

Để các bạn tiện tìm hiểu thêm về trường hợp hiếm có này tôi xin nêu ra năm, tháng, ngày giờ của lá số trên: đương số sinh ngày 7 tháng 5, năm Ất Dậu, giờ Dần, Âm Nam, Mệnh Thủy, Kim Tứ Cục.

Hình ảnh


Và để chứng tỏ có sự bổ túc cho điểm tốt này, tôi xin nói thêm rằng mặc dù cung Nô của đương số có Không Kiếp hãm địa hội Tuế, Phục, Kỵ, Hỏa Tinh thế mà vẫn hay đáo để, bởi vì Không Kiếp, Thái Tuế, Hỏa Tinh đều thuộc Hỏa bị mạng Thủy khắc chế nên người dưới quyền dù là thành phần lưu manh, côn đồ, nhưng vẫn phải chịu ép dưới quyền, còn sao Hóa Kị thuộc Thủy thì tương sinh với Mạng nên cũng chẳng làm gì cho cấp trên khổ tâm. Ngoài ra, cung Dậu thuộc Kim lại sinh bản Mệnh Thủy và chính tinh tại cung Nô là Thiên Đồng là Thủy cũng hợp với bản Mệnh, lại còn các trung tinh hội chiếu (Quang Quý, Long Phượng, Thanh Long …) như vậy cung Nô qúa tốt rồi, huống chi Mệnh Thân lại rất đắc cách, nhất là được Thất Sát cư Quan mà Thân đóng ở đó hội Thai Tọa, Quan Phúc, Khôi Việt lại trội hơn cung Nô nhiều, có quyền sinh sát trong tay, và cũng vì có Quan Phúc làm giảm bớt cách “dư” đi nên đương số không đi về võ nghiệp mà lại chuyển sang ngành “Thẩm Phán”; hiện thời đương số đang làm dự thẩm. Thật đúng là có quyền sinh sát gián tiếp. Tôi cần nói thêm là các hung tinh nêu trên còn ứng vào các bị can, bị cáo là những thành phần bất hảo cho nên cung Nô càng không có gọi là xấu, vì các sao liên hệ đã có môi trường họat động. Hơn nữa dù cho thành phần trực tiếp dưới quyền có là hạng “dao búa” đi nữa, họ cũng chỉ lưu manh với các người khác nhưng đối với đương số lại rất đắc lực.

Để chấm dứt bài này, tôi chỉ còn biết nhắc nhở qúy bạn là bao giờ cũng phải so sánh kỹ lưỡng cung Mệnh và cung Nô cùng vấn đề Ngũ Hành giữa cung Nô và bản Mệnh trước khi xét đến ý nghĩa các cách và các sao, có như thế mới khỏi bị sai lạc nhiều về công danh sự nghiệp của một người coi số.

KHHB số 29

Friday, June 26, 2015

Cách đa phu và cách đa thê trong tử vi

by HoangQuoc  |  in xem số lấy nhiều chồng at  12:42 AM
CÁCH ĐA PHU VÀ ĐA THÊ TRONG TỬ VI

(trích bài học TVUD)

xem lấy nhiều chồng, nhiều vợ trong tử vi

Nói đến chữ đa phải nghĩ ngay đến THIÊN PHỦ chủ đa, nhiều, đông đúc... ngược với VŨ KHÚC chủ ít, giảm bớt và có tính cô đơn.

-Thưa cụ THIÊN PHỦ vì sao cụ nhiều phối ngẫu vậy.

-Vì tui có PHÁ QUÂN nếu bỏ thì cũng mang tiếng nhiều đời vợ hoặc chồng, nếu gắn bó thêm cho sum xuê lại mang tiếng là đa phu, đa thê. Chú mi cũng biết rồi đó THIÊN PHỦ chủ ve vuốt, vỗ về an ủi và cũng thích… phủ lắm.
- Là sao?
- Còn phải hỏi, người này phủ kín người kia. Có thương (THIÊN TƯỚNG) mới làm vậy.
- THIÊN PHỦ là phú ông có dư tiền lắm của mới làm vậy.
- Ối dào, đâu phải là giàu, nghèo cũng lắm người đa phu, đa thê. Do cái số kiếp cung phối có PHÁ QUÂN ưa gắn bó. Bỏ người này có người khác gắn vào. Không bỏ thì cũng có người khác gắn thêm vào cho sum xuê cây leo hạnh phúc.
Như thế là Mệnh THIÊN PHỦ có khuynh hướng đa phu, đa thê. Có nhiều vong tinh tại Phối, tức TUẦN TRIỆT càng dễ mất, và PHÁ QUÂN chơi ngay chữ bỏ.

Mệnh THAM LANG lại có THIÊN PHỦ tại Phối cung, có cái THAM LANG dễ dính nhất là ham muốn người khác giới. Tại Thiên Di cung luôn luôn THAM LANG thấy người mình thương PHỦ TƯỚNG cho nên, THAM LANG không thua kém, có phần sung sức hơn THIÊN PHỦ.

Thứ Ba là kẻ có ĐẠI HAO tại Phối cung. Vì ĐẠI HAO là ưa sự thay đổi, thay cũ đổi mới, thay lòng đổi dạ, thay đổi nhân tình... và dễ gặp nhất là THÁI DƯƠNG bậc tu mi nam tử này dễ dính CỰ MÔN cãi cọ dễ chia ly, và là cái cớ tui có vợ khác, dính THÁI ÂM luôn luôn có biểu tượng trai gái thành ra cũng dễ có thể cơ sở riêng để đi đêm, về hôm có công khai và có âm thầm như số phận. Ngoài ra luôn luôn THIÊN ĐỒNG tại Phối có nghĩa là dễ có nhiều vợ “cùng” một lúc. Nhất là THÁI DƯƠNG ưa giương, ưa khoe làm phụ nữ chết mê mệt vì nam tính.

Và CỰ MÔN khéo nói, ưa chơi trội có tui đây. Để ý thì Phối cung luôn luôn có THÁI ÂM tất nhiên có THIÊN LƯƠNG và cũng dễ gặp THIÊN CƠ, tức bộ CƠ ÂM mưu trí đàn bà, qua sự phơi bày của THIÊN LƯƠNG, chiêu này không thành thì còn chiêu lương thực thực phẩm, ăn đi mà… chiêu này không thành lại chiêu con gái nhà lành, khiến người khác động lòng trắc ẩn… Và một hôm CỰ MÔN về nhà, cửa không mở, vợ khóa kín khuê phòng. CỰ ta ngẫm nghĩ… không khéo bác Bửu Đình nói đúng. CỰ MÔN là cái cửa.

Nói chung cách Đa Phu Đa Thê rất dễ gặp tùy hoàn cảnh xã hội và môi trường sống. Hoàn cảnh trong TỬ VI là Đại Hạn tiếp xúc với người khác giới mới sinh chuyện. Đó là LIÊM TRINH thiếu nữ trong sáng hồn trinh bạch (?), là THÁI ÂM thiếu phụ (thiếu nữ) hiền lương (con nhà lành). Đối với nam. Với phụ nữ cũng đa dạng không không kém là THÁI DƯƠNG bậc tu mi nam nữ, rồi THAM LANG sẵn sàng chìu chuộng dâng những đóa hoa tươi thắm cho sư đoàn 8.3 (đọc là 8 chấm 3, sư 83 có thể trùng phiên hiệu gây phiền cho người viết). 

Còn có THIÊN PHỦ là phú gia, bi chừ gọi là đại gia, người già nhưng lắm của, đến CỰ MÔN cũng là tay cự phú, cũng gọi chung là đại gia nốt. Tô điểm niềm vui là các bộ ĐÀO HỒNG ở hạn. Nếu có LƯU HÀ niềm vui ấy càng tràn trề.

Lắm vợ nhiều con, lắm chồng nhiều dòng còn tìm thấy ở cung Tử Tức. Không tin hỏi cụ THIÊN PHỦ mà xem. 


Xem hạn lập gia đạo (Hạn lập gia đình) lấy chồng, lấy vợ trong tử vi

by HoangQuoc  |  in Xem Hạn Lấy Vợ at  12:39 AM

HẠN LẬP GIA ĐẠO TRONG TỬ VI


2.5.1.Điều kiện về Cung

Có Đại Hạn hay Tiểu Hạn hội họp tại Phối cung (Di, Phúc, Quan) tức là cần phải có một trong hai Hạn hoặc cả hai thấy cung Phu Thế (Tam hợp hay Xung chiếu). Đại Hạn thấy cung Phu Thê là lúc người ta thường lo nghĩ nhiều hơn đến cái cung thường thấy là cung Phối, cho nên vấn đề hôn sự đăt lên hàng đầu, hầu hết hỉ sự thường gặp tại đây tương tự với Tiểu Hạn cũng vậy. Nếu hôn nhân xảy ra tại Đại Hạn thứ 2 (Phụ, Huynh) là sớm. Đến từ Đại Hạn thứ 4 là muộn.

xem hạn kết hôn

Sớm muộn còn báo hiệu tại Phối cung là các sao KÌNH chủ sớm, ĐÀ chủ muộn, HỶ THẦN tại Phối cũng báo hiệu niềm vui đến sớm từ cung này. Tuy nhiên từ vị trí HỶ THẦN cần có PHƯỢNG hay nhóm Tam Minh để thiên về niềm vui mừng sớm và tốt đẹp về sau. Nếu HỶ THẦN đi với nhóm TANG HƯ KHÁCH thiếu PHƯỢNG tất có bất trắc kèm theo về lâu dài không tốt đẹp. Dễ ở tình trạng chống đỡ với khó khăn (KÌNH) cản trở (ĐÀ) sau hôn nhân (từ vị trí HỶ THẦN luôn thấy KÌNH ĐÀ). Nếu cung Phu Quân xấu tất sinh chuyện phức tạp ở cung số này.



Bộ ÂM DƯƠNG quá sáng tại Phối cung cũng báo hiệu quá sớm.

Bộ Tam Minh tụ tập tại đâu báo niềm vui tại đó, nếu là Quan Cung công việc thuận lợi, Phối cung dễ có hỉ sự nếu chưa có gia đình, nếu có rồi báo hiệu 1 năm tình cảm tốt đẹp. Tử tức cung báo những tin vui do con cái mang lại. Nếu là Nô Cung là do bạn bè mang lại niềm vui đến cho ta….



2.5.2.Điều kiện về Chính tinh


Nam cần đi với nhóm ÂM DƯƠNG LƯƠNG (biểu tượng đôi nam nữ) hoặc nhóm CƠ ÂM LƯƠNG (hình tượng phụ nữ).

Nữ cần gặp nhóm SÁT PHÁ THAM (người đàn ông quấn quit bên tôi,

phá… tôi).

Chung của cả nam nữ có thể gặp là PHỦ TƯỚNG chủ vỗ về, ve vuốt, thương yêu. Nói chung cả 3 nhóm sao kể trên đèu có dấu hiệu hôn nhân nhưng cần gặp các nhóm sao hàng Can và Chi, để quyết đoán.


2.5.3.Điều kiện về Bàng Tinh


Có thể gặp ít nhất một bộ Bàng tinh thuộc các nội dung từ “Mục a” đến “Mục c” sau đây



a.Bàng tinh hàng Chi cố định


Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ Tam Minh (ĐÀO HỒNG HỶ), hoặc ĐÀO HỒNG cũng tốt hay Song Hỷ (THIÊN HỶ, HỶ THẦN) kế tiếp là bộ LONG PHƯỢNG, biểu tượng kết đôi của trai và gái, hai giới.


b.Bàng tinh hàng Can cố định


Đại Hạn hay Tiểu Hạn có bộ TƯỚNG BINH (hay nhất). Một sao chủ thương yêu gắn bó và 1 sao chủ phục vụ, và theo về. Bộ sao này hợp với chữ vu quy bên nữ. Tiếp theo là bộ HAO KÌNH ĐÀ có HỶ THẦN, chủ sự xây (ĐÀ) dựng (KÌNH) gia đình, tổ ấm.


c.Các bộ Bàng tinh Lưu động


Mỗi năm nhất định, ta luôn có bản đồ Phi Tinh cho cả Nam và Nữ. Từ bản đồ Phi Tinh của Nam hay Nữ kiểm tra cac bộ sao Lưu động giống như các bộ Bàng Tinh của hàng Can và Chi cố định. Cần lưu ý các bộ sao Lưu động tại năm lập gia đạo có thể lưu tại Mệnh Hạn, Tiểu Hạn và Phối Cung.


2.5.4.Kết luận


Hạn lập gia đạo cần thỏa mãn: 



2.5.5.Tiếng sét ái tình, tình ảo


Một lá số có THIÊN TƯỚNG đi với KHÔI VIỆT hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có sao này dễ bị sét ái tình đánh te tua, nếu THIÊN TƯỚNG không có KHÔI VIỆT đánh thì sẽ đánh vào năm có lưu KHÔI VIỆT. Cho nên Mệnh có sao THIÊN TƯỚNG hội họp dễ bị sét ái tình.

Tương tự ta có cách Tình Ảo khi THIÊN TƯỚNG đi với TUẾ HƯ hay từ vị trí THIÊN TƯỚNG có TUẾ HƯ hội họp. Các năm TƯỚNG có TUẾ HƯ lưu vào cũng dễ bị tình ảo. Người TƯỚNG hội họi hay bị đặc điểm này vì 12 Chi khi xoay vòng tất có các năm TƯỚNG thấy TUẾ HƯ.


2.5.6.Các cách phản bội tình cảm


Mệnh có THIÊN TƯỚNG hạn đến CỰ MÔN. CỰ và THIÊN TƯỚNG luôn luôn kề nhau. THIÊN TƯỚNG qua hạn CỰ MÔN dễ gặp tình đã xa, CỰ MÔN đến hạn THIÊN TƯỚNG dễ phản bội tình cảm.

Mệnh có THIÊN TƯỚNG hay CỰ MÔN mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này.

Mệnh đóng tại LƯƠNG hay TƯỚNG mà có TRIỆT đóng giữa hai sao này. Tình đi với Tiền, Tiền hết thì tình tan.

Đại Hạn hay Tiểu Hạn có CỰ MÔN đi với LỘC TỒN hay TƯỚNG QUÂN. Đó là cách Cát xứ tàng hung. Đó là cách dễ bi phản bội về tình cảm nhất.

Mệnh có CỰ MÔN có Lưu TỒN TƯỚNG ÂN hội họp cũng dễ xảy ra chuyện.
Phối cung có CỰ MÔN hạn có TÔN TƯỚNG ÂN lưu vào cũng được kê
là xấu.

Kỵ nhất là trường hợp có thêm KỴ cố định hay lưu động hội họp

2.5.7.Các cách đánh mất tình cảm



Mệnh, Hạn, Phối có SÁT PHÁ lại có TỒN TƯỚNG ÂN hoặc có TỒN TƯỚNG ÂN lưu vào dễ chịu cảnh thất tình, mất tình, bỏ tình kỵ nhất là trường hợp có KỴ cố định hay lưu động.


2.5.8.Cách dễ bị lộ chuyện trăng hoa (nếu có trăng hoa)


THIÊN TƯỚNG ngộ TRIỆT LỘ, TƯỚNG LỘ cách

Đây là cách mà các từ thường dùng là vạch măt tên phản bội, cháy nhà ra mặt chuột, bị lộ mặt… THIÊN TƯỚNG ngộ TUẦN dễ bị bắt. Rất kỵ gặp thêm THIÊN KHÔNG. Tạo thành cách Tam KHÔNG, kỵ cho toàn bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM.



Hay xảy ra với trường hợp TRIỆT đóng giữa TƯỚNG và LƯƠNG và TƯỚNG và CỰ. Và cũng chỉ có 2 trường hợp đó mà thôi.

Khi có hai cách trên thường có dấu hiệu ngoại tình đặc biết Mệnh có ĐÀO HOA hội họi. Nếu xảy ra chuyện trăng hoa, phản bội thì các năm bị Lưu TRIỆT dễ lộ mặt đặc biệt là bộ KỴ TRIỆT.

Các tuổi Dương sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI DƯƠNG thấy KỴ lưu.
Các tuổi ÂM sợ năm có TRIỆT lưu vào TƯỚNG lại có THÁI ÂM thấy
KỴ lưu.

Các năm LIÊM có KỴ cũng là năm ta dễ bị nghi ngờ về chuyện đó.

Trường hợp tình yêu quay lại ta hay gặp khi bộ KHÔI PHỤC cố định ở cung Phu Thê hay năm có bộ sao này lưu tại cung Phu Thê. Nếu Mệnh, Phu có dấu hiệu ngoại tình tất sinh chuyện “tình cũ không rủ cũng tới”.



2.5.9.Các bộ sao không nên gặp ở Hạn hôn nhân, tình cảm


Hạn hôn nhân, tình cảm rất kỵ Tiểu Hạn hay Phối cung có nhiều sao ám tinh nhất là bộ DIÊU ĐÀ KỴ lại đi với CỰ MÔN. Các Cách THAM ngộ KHÔNG, ĐỒNG ngộ KHÔNG, TRIỆT THIÊN TƯỚNG. Các bộ KỴ TRIỆT. Một số các tuổi Dần Thân Tị Hợi nữ vị trí sao HỒNG LOAN bị mất tác dụng. Ngoài ra ai ngại THIÊN KHỐC hay THIÊN HƯ hội họp với TƯỚNG hay THIÊN TƯỚNG.



Nếu cưới hay yêu trong các năm có những bộ sao đó rất bất lợi, hay bị cản trở, chuyện tình cảm phức tạp nếu Phối cung xấu về sau rất bất lợi và khó bền vững.


Hạn tình cảm có bộ KHỐC lại có KỴ đi với KHÔNG KIẾP rât xấu. Đây là cảnh OÁN HẬN RỒI RA TAY LÀM HẠI có các sao HỎA LINH KÌNH ĐÀ đi với KHÔNG KIẾP mới đoán xấu.

Nhìn chung các hạn về bỏ tình, thất tình, đánh mất tình cảm, phản bội tình, hay lộ về việc lăng nhăng bồ bịnh hầu hết có KỴ cố định hay lưu động.



2.5.10.Các trường hợp bất lợi trong tình cảm


Nếu các lá số có THIÊN TƯỚNG, TƯỚNG QUÂN đặc biệt là THIÊN TƯỚNG cố định tại Mệnh, Thân, Đại Hạn, Tiểu Hạn hay Phối rất bất lợi cho chuyện tình cảm. Sợ các năm có TRIỆT lưu, KHỐC lưu lại thêm KỴ rất khổ về tình cảm. Bộ THIÊN TƯỚNG THIÊN KHỐC là tiếng khóc trong tình yêu. Có thêm KỴ rất sợ có thêm KHÔNG KIẾP càng nguy hiểm. TƯỚNG có KHỐC là ta vừa thương vừa vận, có KỴ ta cộng thêm chữ oán, có KHÔNG KIẾP ta thêm cụm từ RA TAY LÀM HẠI, có KỴ HÌNH cũng xấu, có KỴ thêm KÌNH cũng xấu thiên về ĂN MIÊNG TRẢ MIẾNG, có KHÔNG KIẾP thêm KÌNH ĐÀ HỎA LINH xấu không thể nói hết.



Tuổi Dần có cung Sửu (HỒNG QUẢ) và cung Thìn (TANG KHỐC) rất bất lợi cho chuyện gia đạo kế đó là các cung Tị và Dậu, Thân và Tý.


Tuổi Thân có cung Mùi (HỒNG QUẢ) và cung Tuất (TANG KHỐC) bất lơi kế đó là các cung Mão, Mùi và Dần, Ngọ.

Nhìn chung ai có TANG ở Mệnh hay Phối đa phần bất lợi cho chuyện tình cảm. Có TANG ở Phối nếu không có PHƯƠNG dễ có chuyện bất chính hoặc không trên người tất có Tỳ vết hay cưới chạy tang hay phải có Tang mới có
lâu dài.
Cung Phối có TRIỆT mà Phối cung lại có các Chính tinh sợ TRIỆT như ÂM DƯƠNG sáng, TỬ VI, THIÊN TƯỚNG đa phần bất lợi hôn nhân. Xem thêm cách đa phối.

Với nữ còn sợ cách ĐÀO HỒNG SÁT PHÁ THAM tại Mệnh hay Phu là cách sat Phu và cách KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đi với CỰ NHẬT tại Mệnh hay Phối hoặc Mệnh có KIẾP PHÙ KHỐC KHÁCH đáo hạn có CỰ NHẬT.

Mệnh CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG qua hạn CỰ NHẬT cũng dễ xảy
ra chuyện.

Kỵ nhất cung Phu Thê có CƯ lại có THAI CÁO trong TỒN TƯỚNG ÂN thêm KỴ càng nguy hiểm. Là cách dễ đưa nhau ra tòa. Công thêm các Sát Tinh (lấy KHÔNG KIẾP làm gốc) và KỴ HÌNH để tăng thêm độ xấu.



2.5.11.VD Hạn hôn nhân năm Nhâm thìn


Đoán hạn hôn nhân năm (Nhâm Thìn) chỉ cần tập trung vào bộ Lưu tam Minh là chính, mạnh nhất tại cung Tị, nếu đó là cung Phối dễ động hôn nhân. Hai cung còn lại xếp hạng nhì, ba là cung Dậu, Mão. Và cứ thế Hỉ sự hằng năm thay đổi giành cho nơi khác. Năm nay lợi nhất là những người có hạn HỶ HỒNG ĐÀO cố định cùng lúc bộ lưu tam Minh hội họp đúng vào cung Phối.

Năm Nhâm Thìn lợi thế nhất với nữ. Là các tuổi Mão Dậu vì hạn đáo bộ tam Minh cố định. (Nếu cung Phối nằm ở vị trí tại Tị rất là hay nhì là vị trí Mão Dậu như đã nói.).

Nhưng cung Tị không phải là cung Phối lại là cung Đại Hạn vẫn dễ động hôn nhân.

Tất nhiên mạnh nhất là những người Tiểu Hạn đang có bộ tam Minh cố định, Đại Hạn lại đóng ở cung Tị, cung đó chính là cung Phối, trường hợp này duy nhất 1 lần trong đời.
Nhì là. Đây là cung Phối, Đại Hạn đóng nơi khác lại đắc bộ tam Minh. Trường hợp này bất cứ tuổi nào cũng có thể gặp miến sao cung Tị là cung Phối, và Đại Hạn có tam Minh.
Ba là. Đại Hạn đóng tại đây là cung Phối, nhưng Tiểu Hạn không đắc bộ tam Minh. Trường hợp này tuổi nào cũng có thể gặp.

Bốn là. Đây không không phải là cung Phối nhưng Tiểu Hạn đắc bộ tam Minh.

Tức là cả 2 hạn đều có Tam Minh.

Nói chung khi ai đó hỏi hạn hôn nhân. Bạn chú ý tìm bộ lưu tam Minh ở đâu, nếu không được tam Minh thì cần bộ Nhị Minh ĐÀO HỒNG, bộ lưu Song Hỉ không phải năm nào cũng có và tuổi nào cũng có, bộ này hợp với hôn nhân còn mạnh hơn cả bộ Hỉ Hồng Đào. Xem nó có hội nhập vào Phối cung hay không, nếu không thì cũng hội họp tại cung Mệnh hay Đại Hạn. Tức là nhắm vào bộ sao lưu động nhiều hơn.


Thursday, June 25, 2015

Tướng Quân, Phục Binh - Hạn Tình Duyên, tính cách người yêu, chồng...

by Tử Vi Toàn Tập  |  in xem tình yêu at  1:55 AM

Ta quan tâm tới bộ TƯỚNG QUÂN (TƯỚNG), PHỤC BINH (BINH), hai sao này luôn Xung chiếu nhau dù cố định hay lưu động như đã nói ở trên. Tiểu Hạn, Mệnh Hạn hay Phối Cung có bộ TƯỚNG BINH tất có liên quan tới chuyện tình cảm. Một sao chủ thương yêu gắn bó và 1 sao chủ phục vụ, và theo về.

Nói là bộ TƯỚNG BINH nhưng thực chất là ngôi sao TƯỚNG QUÂN. Nếu đứng tại Vị trí thấy cả TƯỚNG và BINH tức tình cảm nảy sinh từ hai phía. Nếu đứng tại ví trí xem xét chỉ thấy 1 trong hai sao TƯỚNG QUÂN hay PHỤC BINH thì tình cảm chỉ xuất hiện từ một phía, hay là năm ta bị kích động về việc đó.




Từ vị trí TƯỚNG QUÂN ta luôn có LỘC TỒN, QUỐC ẤN, BỆNH PHÙ (TỒN TƯỚNG ẤN BỆNH) hội họp. Thực chất được mô ta như sau: Chuyện tình cảm (TƯỚNG) bao giờ cũng là một kỷ niệm (QUỐC ÂN) khó phai mờ và được lưu giữ (LỘC TỒN) và khi yêu thường lo sợ mất đi người mình yêu nên dễ bị ảnh hưởng xấu của ngôi sao BỆNH PHÙ. Kỷ niệm liên quan tới tình yêu thường để lại cho ta niềm vui hay nỗi buồn hay cả vui lẫn buồn hay sự tủi nhục. Muốn đánh giá tính chất tốt đẹp cần kết hợp với nhóm Tam Minh hay thấy PHƯỢNG kể là hay ngược lại với TANG HƯ KHÁCH không có PHƯỢNG được kể là xấu.

2.3.1.Đại Hạn có TƯỚNG BINH cố định

a. Nội TƯỚNG ngoại BINH: tại gốc Đại hạn có TƯỚNG QUÂN tại chính cung tức là tình cảm xuất phát từ phía ta. Tức bên trong ta thấy thương người đó, muốn gắn bó với người đó còn bên ngoài (đối phương, người ta đang thương) họ cũng muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta.

b. Nội BINH ngoại TƯỚNG: được lý luận ngược lại với cách Nội TƯỚNG ngoại BINH.
c. Từ gốc Đại Hạn có TƯỚNG hội họp trong Tam hợp mà không
thấy BINH
Tức ta muốn có chuyện tình cảm, muốn được gắn bó với ai đó tuy nhiên ta chưa biết đối tượng cần gắn bó là ai. Tất nhiên có kẻ muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta mà ta lại không biết có khi không thích.

d. Từ gốc Đại Hạn có BINH hội họp trong Tam hợp mà không thấy TƯỚNG

Lý luận ngược lại với trường hợp c

2.3.2.Tiểu Hạn có TƯỚNG BINH cố định

a. Nội TƯỚNG ngoại BINH: tại gốc Tiểu hạn có TƯỚNG QUÂN tại chính cung tức là tình cảm xuất phát từ phía ta. Tức bên trong ta thấy thương người đó, muốn gắn bó với người đó còn bên ngoài (đối phương, người ta đang thương) họ cũng muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta.
b. Nội BINH ngoại TƯỚNG: được lý luận ngược lại với cách Nội TƯỚNG ngoại BINH.
xem hạn tình duyên

c. Từ gốc Tiểu Hạn có TƯỚNG hội họp trong Tam hợp mà không
thấy BINH
Tức ta muốn có chuyện tình cảm, muốn được gắn bó với ai đó tuy nhiên ta chưa biết đối tượng cần gắn bó là ai. Tất nhiên có kẻ muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta mà ta lại không biết có khi không thích.

d. Từ gốc Tiểu Hạn có BINH hội họp trong Tam hợp mà không
thấy TƯỚNG

Lý luận ngược lại với trường hợp c
Lưu ý
Với 2 trường hợp c và đ của “Mục 1.1.1” và “Mục 1.1.2”. Nếu Đại Vận chỉ thấy TƯỚNG cố đinh mà không thấy BINH khi đến Tiểu Hạn thấy BINH cố đinh tất ta biết được ai là kẻ đang muốn quấn quit, chìu chuộng phục vụ ta và theo ta. Ngược lại với Đại Vận chỉ thấy BINH mà không thấy TƯỚNG đến Tiểu Hạn có TƯỚNG cố định tất ta sẽ tìm thấy đối tượng để quấn quit, chìu chuộng phục vụ và người ta sẽ có tình ý với ta.

2.3.3.Tiểu Hạn, Mệnh hạn hay Phối cung có bộ TƯỚNG BINH hội họp

Được phân ra theo các trường hợp như ở hai “Mục 1.1.1” và “Mục 1.1.2

2.4.TÍNH CÁCH TỪNG NGƯỜI YÊU VÀ NGƯỜI SẼ LẬP GIA ĐẠO

Đa phần chúng ta thường trải qua hơn 1 mối tình mới có thể tìm được người Phối ngẫu của mình. Cá biết có trường hợp chỉ yêu 1 mà lấy một. Có trường hợp yêu nhiều vô kể. Như vậy ta cần đoán xem ai là người ta có thể sẽ kết hôn với họ.
Nếu chúng ta để ý cung Phu Thê là một cung số cố định. Ở đó có thể thể hiện yếu tố đa thê, đa tình nhưng ta không thể dồn tất cả các tính cách của nhiều người yêu vào đó được. Việc xem xét về tính cách của từng người yếu tưởng chừng như khó khăn nhưng kỳ thực rất đơn giản và thú vị.

2.4.1.Tính cách các người tình

Để đoán tính cách của người yêu ta đứng từ cung có TƯỚNG QUÂN Lưu động mà cung đó là Mệnh Hạn, Tiểu Hạn, Phu Thê hay Tiểu Hạn có TƯỚNG QUÂN cố định mà đoán.
Sử dụng bản đồ Phi Tinh kết hợp với Chính tinh và các Phi Tinh lưu động hội họp về cung số có TƯỚNG QUÂN Lưu động mà luận đoán giống như ta đoán tính cách của cung Mệnh. Trường hợp TƯỚNG QUÂN cố định dùng các cách cục cố định để đoán.
Có trường hợp 1 năm có tới mấy người tình, người yêu là do cùng một năm đó họ vừa thấy TƯỚNG QUÂN cố định lại thấy cả TƯỚNG QUÂN lưu động có khi thấy luôn cả THIÊN TƯỚNG nên có những người một năm vui vẻ với mấy
mối tình.

2.4.2.Ai là người phối ngẫu

Muốn đoán ai là người Phối ngẫu (Chồng/vợ) trong số các người tình hoặc khi nào ta gặp được người chồng/vợ của mình ta cần xem xét như sau:

  • Năm cung Phu Thê có bộ Lưu TỒN TƯỚNG ẤN
  • Năm có Phu Thê xung và tại Tiểu Hạn đó ta thấy TƯỚNG QUÂN hội họp.
  • Năm đến Tiểu Hạn Phu Thê lại có TỒN TƯỚNG ÂN cố định
Đó là những năm ta sẽ gặp được người mà ta sẽ lấy làm chồng hay vợ.



(Sưu Tầm)

Nội dung thông tin thuộc về Tử Vi Toàn Tập.