Wednesday, June 24, 2015

Cách xem Cung Mệnh Vô Chính Diệu: Luận đoán thế nào cho đúng?

by Tử Vi Toàn Tập  |  in Vô Chính Diệu at  8:46 AM
Cách xem cung vô chính diệu vẫn luôn là vấn đề nan giải và khó thống nhất giữa nhiều trường phái tử vi. Bởi lẽ môn tử vi ảo diệu thâm sâu nên gần như các trường phái khác nhau lại có những lý giải khác nhau và áp dụng vào thực tế thì cũng đúng trong nhiều trường hợp khác nhau. 

Tuy nhiên việc luận giải cung mệnh vô chính diệu từ xưa tới nay không phải là điều đơn giản. Ở bài này chúng ta sẽ cùng luận bàn về cung mệnh vô chính diệu qua sự trình bày quan điểm của tác giả Kim Ca. 

Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. 


Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.


Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần.

Mệnh vô chính diệu đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD.

Hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động. 

Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.

Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.

Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. 

Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.

Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương. 

Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.

Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.

Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. 

Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý (tính Dương).


Theo tác giả Kim Ca

Thursday, November 13, 2014

Cách xem Cung Vô Chính Diệu trong Tử Vi

by Tử Vi Toàn Tập  |  in Vô Chính Diệu at  1:50 AM
Vô Chính Diệu (VCD) là gì? Trong khoa Tử Vi, cung Vô Chính Diệu chính là ở cung đó không có sao chính tinh tọa thủ hay đồng cung. Ai cũng biết mỗi lá số đều có 14 chính tinh phân bố vào các cung, tuy nhiên đôi khi có những cung không hề có một chính tinh nào, có những cung lại được phân bố đến hai chính tinh cùng tọa thủ. Vậy VCD trong các cung ảnh hưởng như thế nào?
tuvitoantap.blogspot.com
Gia Cát Lượng là một tài năng Mệnh Vô Chính Diệu
Cách xem xét, phán đoán mệnh VCD như thế nào mới đúng? Chúng ta cùng đi giải quyết vấn đề cung VCD.

1.      Cung Mệnh Vô Chính Diệu

Cung Mệnh không có Chính diệu tọa thủ gọi là Mệnh vô Chính diệu.

Xem thêm bài viết: Cung mệnh vô chính diệu: luận đoán thế nào cho đúng?

+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
+ Người có Mệnh vô Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng hầu. Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khỏe rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở, bất chi.
+ Mệnh vô Chính diệu rất cần có Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không Địa Không hội hợp (Đây gọi là cách VCD đắc Tam Không). Nếu không phải có nhiều Chính diệu sáng sủa, tốt đẹp hội chiếu và nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ. Như thế mới mong sống lâu được.
+ Mệnh vô Chính diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi thọ, tất phải làm con nuôi họ khác, hay phải rời gia đình.  
+ Tại Tứ Mộ, vô Chính diệu: cùng khổ và giảm thọ. Đây rất cần phải có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cứu giải. Như vậy cũng đỡ lo ngại, suốt đời cũng được no cơm ấm áo.
+ Tại Tý, Ngọ, vô Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết non: cũng ví như đóa hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phủ phàng. Đây, nếu có Hóa Lộc tọa thủ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lại, nếu không có Hóa Lộc tọa thủ thì nghèo mà sống lâu.
- Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần. Cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng thêm tuổi thọ, về già lại được sung sướng.
- Cung Mệnh có Địa Không tọa thủ, cung Thân có Địa Kiếp tọa thủ gọi là Mệnh Không, Thân Kiếp. Người có Mệnh Không, Thân Kiếp rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít, buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Song Hao hội hợp, là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh, sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân tọa thủ, thật không sống lâu được.
- Cung Mệnh có Địa Kiếp tọa thủ, cung Thân có Địa Không tọa thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại bất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu không, lúc thiếu thời vất vả, gian truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật, Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tọa thủ thì cũng được no cơm ấm áo.

Cách vô chính diệu có nhiều điều khác người
- Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa thì vận gặp Sát Phá Tham sẽ bạo phá , công danh tài lộc đến ào ạt như vũ bão.
- Mệnh vô chính diệu có Không Kiếp đắc địa ở Dần – Thân – Tỵ - Hợi, đại tiểu vận có Phá quân thì bỗng chốc gặp thời, giàu sang, phú quý.
- Mệnh vô chính diệu có Kình Đà đắc địa, đạitiểu vận có Thất sạt thì một bước uy quyền giàu sang.
- Mệnh vô chính diệu có Hỏa Linh đắc địa, đăị tiểu vận có Tham lang thì một sớm một chiều trở thành tỷ phú.
 - Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa, gặp đại tiểu vận có Tử Phủ Vũ Tướng, cự Nhật thì bị chê là giang hồ, khó thành công.
- Mệnh vô chinh diệu có sát tinh đắc địa hay hãm địa, gặp đại tiểu vận cũng vô chính diệu thì chẳng nên cơm cháo gì.
- Mệnh vô chính diệu có Tả Hữu đồng cung và Nhật Nguyệt đắc địa hợp chiếu thì thông minh tài giỏi.
- Mệnh vô chính diệu có sát tinh đắc địa, được Khoa Quyền Lộc tam hợp chiếu thì mở mặt với đời, hạn gặp Khoa thì có công danh , gặp Quyền có địa vị, gặp Lộc có tiền tài.

2.      Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.

3.      Cung Phúc Đức Vô chính Diệu
- Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.
- Nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là được hưởng phúc sống lâu. Trái lại, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu không có Tuần, Triệt án ngữ, hay không có Tam Không hội hợp, phải luận đoán là kém phúc (dù có sự hội hợp của nhiều sao sáng sủa tốt đẹp cũng thế). Nên chú ý nhận định những trường hợp đặc biệt sau đây:
+ Nhật, Nguyệt chiếu hư không: cung Phúc Đức vô Chính diệu có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hội chiếu được hưởng phúc sống lâu, tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có nhiều người qúy hiển, giàu sang. Tổ tiên xa đời cũng đã có danh giá tiếng tăm còn lưu lại đến đời nay. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Phúc Đức vô Chính diệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, hay có Tam Không hội hợp lại càng rực rỡ
+ Đà La độc thủ, cung Phúc Đức vô Chính diệu an tại Dần, Thân, có Đà La tọa thủ: được hưởng phúc, sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Họ hàng càng ngày càng khá giả, có nhiều người qúy hiển, văn võ toàn tài. Cũng trong trường hợp này, nếu Đà La gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ không được coi là Đà La độc thủ nữa.

4.      Cung Điền Trạch Vô Chính Diệu
- Không được thừa hưởng tổ nghiệp: phải tự tay gây dựng.
- Tuần, Triệt án ngữ: lập nghiệp trước khó sau dễ. Mua tậu nhà đất rồi lại bán. Thay đổi nơi ăn chốn ở luôn luôn. Về già mới có chỗ ở chắc chắn, nhưng nhỏ mọn tầm thường.
- Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiến hay hợp chiếu: rất nhiều nhà đất. Chỗ ở rất cao đẹp. Càng về sau càng mua tậu được nhiều
- Vô Chính diệu được Tuấn, Triệt án ngữ và Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiếu: rất rực rỡ. Lập nghiệp tuy chật vật buổi đầu, nhưng về sau rất giàu có, nhà hàng dãy, ruộng đất thẳng cánh cò bay.

5.      Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu
Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ. Nên chú ý rằng cung Quan Lộc vô Chính diệu, dù có gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp phối chiếu cũng không được toàn mỹ. Như thế, dĩ nhiên là công danh không thể hiển đạt được, chức vị cũng bình thường. Nhưng ngoại trừ có hai trường hợp đặc biệt:
- Tuần, Triệt án ngữ: tuy gặp nhiều trở ngại trên đường công danh nhưng sau vẫn hiển đạt. Thường là hoạnh phát hoạnh phá, có chức vị cũng chẳng được lâu bền.
- Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiếu: công danh rực rỡ, uy quyền hiển hách. Nên chuyên về chính trị, kinh tế về sau tất được xứng ý toại lòng. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Quan Lộc vô Chính diệu có Tuần, Triệt án ngữ, lại càng rực rỡ tốt đẹp bội phần.

6.      Cung Nô Bộc Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.

7.      Cung Thiên Di Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.

8.      Cung Tài Bạch Vô chính Diệu
Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ. Dù có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cũng không thể giàu to lớn được ngoại trừ hai trường hợp đặc biệt sau đây:
- Tuần, Triệt án ngữ: buổi đầu kiếm tiền khó khăn, nhưng về sau dễ dàng, càng về già lại càng sung túc.
- Nhật, Nguyệt (cùng sáng sủa) xung chiếu hay hợp chiến: giàu có lớn. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Tài Bạch vô chính điệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, thật là tốt đẹp bội phần.

9.      Tử Tức Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.

10.  Cung Thê Thiếp Vô Chính Diệu
+ Coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ.

11.  Các Hạn gặp Vô Chính Diệu
- Mệnh vô Chính diệu cần gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hay Sát tinh, Bại tinh sáng sủa tốt đẹp nhập Hạn hơn là Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp nhập Hạn. Mệnh vô Chính diệu có Hạn gặp Sát, Phá, Liêm, Tham, Sát tinh hay Bại tinh dù tốt đẹp hay xấu xa thì mưu sự bao giờ cũng trước khó sau dễ, có vượt được trở ngại ban đầu về sau mới khá giả. Trong trường hợp này, nếu những sao kể trên nhập Hạn lại sáng sủa tốt đẹp, chắc chắn là danh tài hoạnh phát mọi sự đều hành thông. Nhưng nếu trái lại, những sao kể trên nhập Hạn lại mờ ám xấu xa, tuy vẫn khá giả nhưng thường may ít rủi nhiều và hay phải lo lắng buồn phiền.
- Mệnh vô Chính diệu, cung nhập Hạn cũng vô Chính diệu tất mọi sự đều dở dang bế tắc, không được xứng ý toại lòng vì thành ít bại nhiều. Trong trường hợp này nếu cung nhập hạn vô Chính diệu lại gặp Tuần, Triệt án ngữ tất mọi sự hành thông danh tài hưng vượng.
- Mệnh vô Chính diệu. Hạn gặp Sát, Phá, Tham hội hợp Đào, Hồng, Suy, Tuyệt, tất tính mạng không thể an toàn được. Số Gia Cát Võ Hầu đời Tam Quốc cũng Mệnh vô Chính diệu chẳng may gặp Hạn này nên phải về chầu trời.

- Cung nhập Hạn vô Chính diệu: coi Chính diệu xung chiếu như Chính diệu tọa thủ nhập Hạn. Tùy cheo từng trường hợp, nhận định như trên.

Monday, September 21, 2009

Vô Chính Diệu Ngộ Tam Không Có Song Lộc (Vô Chính Diệu Đắc Tam Không)

by Tử Vi Toàn Tập  |  in Vô Chính Diệu at  2:28 AM
CHUNG TRỜI nhưng CÁCH BIỆT

Lá số của bà Mậu Dần
Đây là lá số của của phụ nữ có chồng là ngoại kiều, và có một đứa con với người ấy, bà ta là chủ nhân của một quán bar. Năm Bính Ngọ 1966 bà bị chết bởi một viên đạn xuyên ngang cổ. Nghi vấn là bà bị người chồng giết. Cũng có người cho là đạn lạc.

Lá số lớn hơn một tí ở trong trong ALBUM bạn có thể tải về nghiên cứu. (Maudan588)

LÁ SỐ thuộc cách VÔ CHÍNH DIỆU ngộ tam Không, với TUẦN tại bản cung, nếu có Song Lộc gọi là đắc tam Không. Xét ra MỆNH cung không xấu mấy, chỉ hiềm cung an Thân bà xấu lại gặp một đại hạn xấu, vì thế mà qua đời.

Người này cung an Thân xấu có thể nói cái Thân làm hại cái MỆNH. Cung Phúc Đức xấu và Thân cư tại đó. Một cung Phúc cực kỳ xấu hội họp tại đó toàn bộ Sát tinh lại gia thêm KỴ HÌNH đây là trường hợp rất ít gặp. Tại bản cung có các sao bất lợi cho Thân như:

THIÊN HÌNH Thân kề dao kiếm mà bản thân nghê nghiệp không liên quan đến công cụ này.
BẠCH HỔ Thân kề miệng cọp.

LINH TINH Thân dễ rơi rớt rụng, non yểu. Nằm trong bộ LINH HÌNH.

Đây là trường hợp điển hình một cái Thân cực xấu bên ngoài cả một bầy hung tinh không thiếu. Bởi thế MỆNH tốt không bằng Thân tốt... Thân xấu coi như miễn bàn.

Với một thân thể có vấn đề như vậy, lại gặp đại hạn CƠ ngộ KIẾP KỴ HÌNH KÌNH LINH HỎA một bầy Hung sát tinh tại đại hạn. Chỉ Cơ Kiếp thôi là thấy nguy cơ chứ đâu phải thời cơ, nhưng hình như không biết đấy là nguy cơ, với Cơ chỉ giỏi cật vấn lại càng lên án (KÌNH HÌNH) cấm đoán (KỴ QUYỀN) và cũng do cật vấn này họa (tức là KIẾP) đến từ lịnh trừng phạt (LINH HÌNH) bằng hỏa khí (HÌNH KÌNH HỎA)
Một tiểu hạn ứng vào câu phú: “CỰ MÔN phùng ĐÀ KỴ tối hung” lại gia thêm KÌNH HỎA KHÔNG KIẾP hội họp, gặp TRIỆT, TRIỆT này không tiêu trừ tai họa, phòng tránh tốt vì bị KỴ (KỴ TRIỆT ghét mà trừ đi. TRIỆT như lá chắn của ông cảnh sát có thể che chắn những vật lạ ném vào nhưng chắc chắn không che được lời đố kỵ, lá chắn cũng vỡ nếu như nhiều hung sát tinh như trường hợp này)

Một đại hạn cật vấn bởi THIÊN CƠ,  lại một tiểu hạn phản đối của CỰ MÔN dễ bị căm ghét KỴ KIẾP KHỐC người ta ra tay làm hại.

Trên lá số còn có một yểu cách khác. Đó là THIÊN SỨ ngộ Văn Xương có THẤT SÁT. Văn chương buồn cầu siêu. Ai nghe? Chính anh em cha mẹ nghe. Từ cung Huynh Đệ ta thấy đủ bộ Quế Sứ Hoa Thương có THẤT SÁT. Để lại đau lòng cho anh em là chính.

Từ cung MỆNH ta có có bộ CỰ NHÂT+ ĐỒNG LƯƠNG ngộ KHÔNG chủ sự cùng chung nhưng không đồng lòng, vì thế người viết mới gọi Chung Trời nhưng Cách biệt, người “đồng môn” ấy, người từng ra vào cửa nhà, ra vào cửa phòng ngủ, từng hầu cơm, hầu nước cho y đã sát hại không thương tiếc. Đó là nghi vấn hay sự thật? Thì đây.

Đại hạn 23 ta thấy các cung PHU DI QUAN PHÚC có 4 đối tượng khả nghi, nhưng QUAN và PHÚC không phải là người, DI chủ bên ngoài và PHU mà thôi.
Tiểu hạn Mậu Ngọ ta có QUAN PHU MỆNH TÀI chỉ có duy nhất PHU là đối tượng mà thôi. 2 yếu tố đó tạm cho là đủ chưa?

Cho rằng là đạn lạc, tức tai họa từ đâu bay đến, liên quan đến bộ PHI VIỆT nhưng bà ấy tuổi Mậu, năm hạn thuộc Bính không có bộ PHI VIỆT kể cả lưu động và cố định.
Trong khi ấy Ách cung năm Bính Ngọ có bộ lưu BINH ĐÀO KIẾP hội họp với bộ sao cố định cùng tên. Cộng với bộ VŨ SÁT dễ bị giết bằng vũ khí, vũ lực (hoặc bị đoạt của..) có PHỤC BINH gây ra.
Một đại hạn xấu, một tiểu hạn cũng rất xấu, một cung an Thân quá xấu, thêm một năm Bính Ngọ có các bộ lưu KÌNH Lưu ĐÀ đánh thức bọn KÌNH ĐÀ cố định hoạt động. CỰ MÔN trở thành ‘Bước khởi đầu’ ra nghĩa địa. Giả thử bà qua khỏi năm này đến năm Mậu Thân tiểu hạn đáo Thân cũng chết, chết tuyệt đối.
Một cung Phu Thê có KIẾP là thấy kiếp nạn vì người tình rồi, ở đây lại có thêm dao súng và sự căm ghét.

Monday, June 1, 2009

VÔ CHÍNH DIỆU là gì trong Tử Vi?

by Tử Vi Toàn Tập  |  in Vô Chính Diệu at  12:56 PM
Vô Chính Diệu
Có bao nhiêu trường hợp Vô Chính Diệu? Có 24 trường hợp Vô Chính Diệu. Ta có thể tóm gọn như sau.
Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT hội họp (miễn sao có 2 sao này tam hợp như Vô Chính Diệu có CỰ ĐỒNG xung, một sao hợp một sao xung chiếu như Vô Chính Diệu có CƠ ÂM xung, Đồng Âm xung)
Vô Chính Diệu có THÁI ÂM xung (như CƠ ÂM, ÂM DƯƠNG xung)
Vô Chính Diệu có THÁI DƯƠNG xung ( CỰ NH ẬT)
Vô Chính Diệu có THIÊN LƯƠNG xung (như Cơ Lương, Đồng Lương,)
Vô Chính Diệu có THAM LANG  xung (như Liêm Tham, Tử Tham, Tham Vũ)
Vô Chính Diệu có CỰ MÔN xung (như CỰ CƠ xung)
Có thể rút gọn xuóng còn 4 dạng Vô Chính Diệu có NHẬT hay NGUYỆT cả NHẬT NGUYỆT  hội họp. Và quan trọng là NHẬT NGUYỆT sáng hay tối. Và 3 trường hợp khác là Lương, Tham, Cự xung.
Vô Chính Diệu là gì?Là không có chính tinh tại bản cung, như một ngôi nhà vô chủ, như một con người không có lập trường rõ ràng. Vì thế nó bị ảnh hưởng của chính tinh xung chiếu. Ta cần biết lá số TỬ VI vuông vức như bạn thấy, thực tế phải vẽ cho tròn trịa mới hợp lý nhưng vẽ tròn coi bộ khó quá. Thôi thì vẽ vuông vức cũng được miễn sao hiểu rằng: cung chính chiếu ngay trước mắt, như ngôi nhà đối diện bên kia đường nhà bạn. Cung Vô Chính Diệu không có chủ tất bên kia nhảy vào làm chủ ngôi nhà hoang.
Nhưng trong này còn có Bàng tinh như KÌNH DƯƠNG, KHÔNG KIẾP… nó đâu chịu? Bàng tinh chẳng qua là đồ dùng mà thôi, bạn ơi! Toàn bộ chòm THÁI TUẾ  là sao chỉ cá tính, trạng thái (tốt xấu) vui buồn. Chòm BÁC SỸ là đồ dùng, các sao khác chẳng qua là tình trạng, tình hình báo cho biết xấu tốt. Dùng được hay không dùng được, dùng sinh họa hay dùng sinh lợi các sao Hóa khí sẽ báo cho ta biết.
Ví dụ cũng KÌNH DƯƠNG là cây viết, cây viết sẽ viết trên tờ giấy ra văn phẩm XƯƠNG KHÚC, nếu không có, đành chờ đáo hạn XƯƠNG KHÚC đem ra sử dụng (khổ nổi có người đem theo có người thấy không dùng được vất đi rồi).
KÌNH DƯƠNG không còn là viết thì có thể là dụng cụ nhà nông như cuốc, mai… công cụ như dao… có điện, lửa chớp chớp biến thành vũ khí (ngày xưa múa gươm, vũ khí nói chung ánh sáng lấp loáng). Giải thích như vậy để bạn hiểu Bàng tinh như là công nhân. Chính tinh như một chủ nhân. Nhìn công nhân ta biết chủ nhân. Công nhân trồng chè tức chủ nhân là nhà nông nghiệp, chẳng lẽ một Văn sỹ (có chăng mới bỏ nghề). Nhìn Bàng tinh ta khẳng định vai trò Chính tinh. Như TỬ VI là ngôi sao hành động, hành vi, gánh vác trách nhiệm… gìn giữ biên cương với cây súng trong tay, đích thị là trách nhiệm rồi. Chăm sóc một ngôi trường, một lớp học cũng là trách nhiệm, cho đến chăm sóc quán hàng riêng tư cho gia đình cũng là trách nhiệm với gia đình và khách hàng. Vấn đề còn lại là trách nhiệm với ai. Từ chỗ đó đoán được chân tướng TỬ VI.
Những lập luận trên cho thấy Vô Chính Diệu chấp nhận Chính tinh một cách dễ dàng. Trong khi mình không có chủ nhân nên mong chờ người khác đến làm chủ. Vì thế có câu ”MỆNH Vô Chính Diệu bất minh…” (bất minh không minh bạch rõ ràng, hôm này thế này mai thế khác) sẵn sàng tiếp thu những chính tinh khác khi đáo hạn khác. Một người có chính tinh tại MỆNH như PHÁ QUÂN gặp hạn CỰ MÔN nó suy nghĩ khác, một phá gặp một phản… thì dễ làm phản. Nhưng Vô Chính Diệu gặp Cự cũng chỉ ngang mức cự mà thôi.
Vô Chính Diệu lấy cung xung chiếu mà luận đoán. Vì tại bản cung không có chính diệu nào tọa thủ đương nhiên 2 chính tinh nầy xâm phạm vào cung MỆNH. (chúng ta đang ở trên một vòng tròn gọi là Thiên Bàn, cung xung chiếu đi ngang đường thẳng đi qua tâm, cắt 2 nửa vòng tròn bằng nhau y như trong toán học). Ví von cho dễ hiểu Vô Chính Diệu  như người không cha, không mẹ chịu tác động bên ngoài vậy, như tờ giấy trắng bên ngoài viết chi cũng được. Nếu ta có chính tinh tức sẽ có 2 trường hợp tương thích hoặc đối kháng với chính tinh bên ngoài. Đằng nầy không có chính tinh, chỉ có bàng tinh tức chịu sự chỉ huy dẫn dắt bên ngoài, dễ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài. Ngay như Khổng Minh Vô Chính Diệu cũng bị Lưu Bị dẫn đi. Ví dụ như vậy cực kỳ dễ hiểu, Vô Chính Diệu tam phương tốt nhất định là tốt, còn ngon lành hơn có chính tinh mà nó không chịu hợp tác với nhau. Như nhóm SÁT PHÁ THAM tại MỆNH cực kỳ vất vã mới như ý muốn.
* Ngoài ra luận theo ngũ hành để luận đoán MỆNH phù hợp với chính tinh nào. Ngay cả có chính tinh cũng luận theo ngũ hành để đoán. Người ta cho mỗi sao mỗi hành đâu phải để mà chơi. Đừng đem cái hành của ngôi sao ấy lý luận với cung, với sao đi với nó, đây là sai lầm dễ phạm phải rồi lúng ta, lúng túng tìm cách giải thích trẹo cả lưỡi, chính bản thân mình không hiểu lấy đâu người khác hiểu. Cho nên, chắc gì có TỬ VI tại MỆNH mà mang được trọng trách của TỬ VI.
* Nếu được diện kiến với người có lá số, hoặc biết được cá tính người ấy. Vấn đề tương đối dễ dàng là nghiệm chứng qua hình dáng cá tính. Ngay cả với có Chính tinh thủ MỆNH chứ đừng nói Vô Chính Diệu. Ta cần phân loại Vô Chính Diệu như đã nêu trên, đi sâu vào cần phân loại tiếp.
TUẦN TRIỆT và Vô Chính Diệu.
Nếu như MỆNH có TUẦN hay TRIỆT hay dở phức tạp tùy thuộc chính tinh tại bản cung có thích Tuần hay Triệt không. Như TỬ VI kỵ gặp các sao này. THAM LANG thì ưa.
Cần biết Tuần Triệt có những đặc tính hay. Như Phòng Trừ , Vâng lời đi cả bộ là tuân thủ triệt để, giáo dục, hiểu biết, tiếp thu và loại trừ …. Cho nên Vô Chính Diệu đắc TUẦN hay TRIỆT án ngữ ngay bản cung để tiếp thu và loại trừ. Nhưng không phải Vô Chính Diệu nào cũng cần đến TUẦN TRIỆT nhất là Vô Chính Diệu có Cự Cơ xung. Phúc Đức cung Vô Chính Diệu cũng kỵ TRIỆT Vì là Phúc Đức không thể loại trừ được. Có câu: “Phúc Vô Chính Diệu tu cần KHÔNG tú (Tuần) Kỵ ngộ TRIỆT tinh
* Bản thân TUẦN, TRIỆT cũng là sao cho nên khi Vô Chính Diệu có 2 sao nầy giá trị như không còn là Vô Chính Diệu nữa. Vì tôi có TUẦN đây, tôi có TRIỆT đây. Uy lực của nó chế ngự cat 2 cung. Nếu không có 2 sao nầy đích thị là Vô Chính Diệu. Vô Chính Diệu có 2 sao nầy là may mắn, nhưng có chính tinh tốt đẹp xung chiếu lại kỵ TUẦN TRIỆT là điều cay đắng. Nhưng thôi, dẫu sao nó cũng được gọi chung là Vô Chính Diệu.
* Trong trường hợp MỆNH đã Vô Chính Diệu, THÂN cũng lại Vô Chính Diệu. Ta có 2 trường hợp 
A MỆNH TRIỆT THÂN TUẦN.
B MỆNH TUẦN THÂN TRIỆT.
C. MỆNH (TUẦN hay TRIỆT) THÂN có chính tinh.
D. MỆNH Vô Chính Diệu không có Tuần hay Triệt. THÂN cũng Vô Chính Diệu.
Cả 2 đều Vô Chính Diệu. Trường hợp A hay hơn là B. Vì MỆNH có thể TRIỆT nhưng THÂN không thể TRIỆT được (vì nó là thân xác, thân phận… TRIỆT đi dễ trở thành phế nhân…)
Cho nên có câu:
“Mệnh TRIỆT, Thân TUẦN tu cần vô hữu chính tinh. Vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.”. Tuổi càng cao càng dễ thành công.
Trường hợp B có thể ngoan hơn nhưng chưa biết số phận về đâu.
C là trường hợp MỆNH Vô Chính Diệu có TUẦN, hay TRIỆT. Cung an Thân có Chính tinh, luận theo chính tinh ấy tốt xấu tùy thuộc đắc hãm. Đừng quên rằng cung an Thân nó quan trọng hơn cung MỆNH. Lấy câu "MỆNH hảo bất như THÂN hảo. Thân hảo bất như Hạn hảo" (MỆNH tốt không bằng THÂN tốt. THÂN tốt không bằng Hạn tốt). MỆNH chỉ là ý chí mà thôi. Thân hình hài cần phải khỏe mạnh, tốt đẹp. Mượn tạm hình ảnh nhà bác học ngồi xe lăn bên Mỹ để lập luận. Ví như ông ta là người MỆNH tốt mà THÂN xấu.
Trường hợp D phải kể là xấu. Vì yếu tố phòng trừ không có.
Tiếp là MỆNH Vô Chính Diệu nhưng không có TRIỆT hay TUẦN. xem ở dưới
Vô Chính Diệu nhưng không có TUẦN hay TRIỆT án ngữ:
* Lại có Hung Tinh tọa thủ ta gọi là Hung tinh độc thủ. Có Cát tinh ta gọi Cát tinh tọa thủ. Như Vô Chính Diệu KÌNH DƯƠNG độc thủ, Vô Chính Diệu THIÊN HÌNH  độc thủ, VĂN XƯƠNG độc thủ nếu thấy cả 2 ta gọi XƯƠNG KHÚC tọa thủ. Kết hợp với chính tinh bên ngoài mà luận đoán, quan trọng là có phù hợp hay không
Vô Chính Diệu lại không có bộ Phòng Trừ tọa thủ bản cung bị đánh giá chung là xấu, là không an toàn. Chư a chắc đã xấu ví dụ có TỬ VI xung bên trong ta có TRIỆT ông TỬ VI không dám vào giúp đỡ. Như vậy khó tìm ra một công thức chung, mẫu số chung cho các trường hợp Vô Chính Diệu.
MỆNH Vô Chính Diệu có yểu không?
Mệnh VCD phi yểu chiết nhi hình thương”. Phi yểu chiết nhi hình thương là sao? Không yểu MỆNH cũng thương tật.
Mệnh VCD có thể rất yểu, Mệnh  VCD phải vay mượn chính tinh bên ngoài nhưng đôi khi chính tinh không phù hợp với bản Mệnh, như Mệnh  Hỏa mà chính tinh lại Thủy. Mệnh VCD cung an Thân cũng VCD, đây cũng là lý do rất dễ yểu.
Mệnh VCD vay mượn chính tinh bên ngoài, mạnh nhất là NHẬT NGUYỆT hội chiếu nhưng cùng lúc cả 2 chính tinh nầy đều ngộ TUÀN TRIỆT thành ra hoàn cảnh quá tối tăm. Đó cũng là lý do yểu.
Mệnh VCD lại có Sát tinh nhập Mệnh. Đây cũng là trường hợp yểu.
Cho nên câu Mệnh VCD không yểu cũng hình thương cũng không phải câu nói quá đáng. Vì vậy để tăng thọ cho cách nầy người ta cho rằng:
Mệnh VCD nhị tinh diên sinh
Tức là thay đổi tên họ, thọ cao. Khi thay tên đổi họ tức thì cái tên ấy, danh tính ấy đã chết đi tức là chết cái tên, cái danh, cái họ chứ bản thân không chết. Điều nầy nghe có vẽ như là vô lý phản khoa học phải không? Mắc chi thay cái tên, cái họ lại thọ. Vô lý quá. Vâng có lẽ vô lý thật nhưng nếu bạn là người Do Thái ở vào thời điểm Đức Quốc Xã cai trị, bạn có cho rằng thay đổi được tên họ tất thị được sống. Đúng quá phải không? Nếu bạn là Bin La Den (hoặc ở vào hoàn cảnh na ná) trong tay bạn hiện có nhiều thẻ thông hành phải không? Nếu có bộ râu truyền thống tôi cũng e rằng: râu giả? Thậm chí bạn còn muốn Bin La Den giả chết để Bin La Den thật sống. Vậy thì chuyện thay tên đổi họ mà thọ không có chi là huyền bí hết, tuổi thọ lại cao. Những người hoạt động chính trị vài ba chục tên giả là chuyện thường, thậm chí tên giả còn nổi danh hơn tên thật.
Ở đời, đôi khi có người  không ưa cái tên, cái họ của bạn, chừng đó thôi cũng đủ chết. Chứ chưa nói đến có tư thù, tư oán... Bạn không hoài nghi việc bầu cử chỉ vì cái tên, cái họ, cái giới tính, cái nguồn gốc... gạch bỏ không thương tiếc một người có tài năng mà bạn chẳng chịu tìm hiểu. Vậy thì thay đổi tên họ có thể thay đổi cả vận mạng con người. Bạn đồng ý chưa? Biết đâu nhờ cái tên bạn vào phòng mổ sớm 1 tí mà được cứu sống, ngược lại bạn chết vì sự muôn màn.
Và nhìn những Nickname thì có những cái nghe thôi đà sinh bệnh. Lại đổi nickname, đổi nửa nhưng quan trọng là nên đổi cá tính đi.
Các văn sĩ không ai ép buộc chi, chỉ có kinh tế ép thôi. Đôi khi cũng thay tên đổi họ chuyển qua viết dạng ‘mì ăn liền’, dạng ‘bồi bút’, dạng ‘khêu dâm’...
Ngày xưa trùng húy với vua, buộc phải thay đổi danh tính. Thậm chí thân phụ của người viết, trùng tính với quan Thượng Thư mà buộc phải thay tên, nếu không thay tức hoạn lộ không bền, còn kéo theo mạng sống không bền. Thân phụ lại là người Mệnh VCD.
Mệnh VCD thọ.
Không có Hung Sát tinh hội họp hay độc thủ lại có các sao như:
THÁI TUẾ chủ người cao tuổi.
CÁO PHỤ chủ lời bảo ban của bậc cha ông, tức cùng hàm ý thọ.
Hoặc khi có THIÊN LƯƠNG thủ Thân và nhất là THIÊN LƯƠNG xung chiếu MỆNH, như các cách Vô Chính Diệu có ĐỒNG LƯƠNG, CƠ LƯƠNG, DƯƠNG LƯƠNG xung. Đó là nói tổng quát, chứ đừng vin vào đó, quan trọng là có phá cách không. Chính người viết đưa lá số Vô Chính Diệu có ĐỒNG LƯƠNG xung mà bị giết để làm mẫu đấy.
Vô Chính Diệu nào vẽ vang nhất.
Đó là các trường hợp Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT hội họp. Hoặc DƯƠNG LƯƠNG xung dù có hãm vẫn còn là tốt. Trường hợp Vô Chính Diệu tại Mùi có DƯƠNG LƯƠNG tại Mão và THÁI ÂM tại Hợi. Được xem như hay nhất. Vì sao Vô Chính Diệu có NHẬT NGUYỆT lại hay (hay là hay về công danh) vì NHẬT NGUYỆT là bộ sao: “Chính bất như chiếu, chiếu bất như giáp”. Cách THAM VŨ Sửu Mùi vốn đã hay còn hưởng thêm cách giáp NHẬT NGUYỆT được phê ‘phi vinh tắc phú” (không sang cũng giàu). NHẬT NGUYỆT ví như ngọn đèn pha chiếu lên sân khấu. Nhìn là nhìn nhân vật đứng trên sân khấu. Một người mà có 2 vầng NHẬT NGUYỆT chiếu vô MỆNH như vậy là quá đẹp. Được gọi là NHẬT NGUYỆT tất nó ưu tiên phát xạ so với các chính tinh khác. Bởi thế mới gọi nó là NHẬT NGUYỆT mặc dù người xưa thừa biết nó không phải mặt trăng, chẳng phải mặt trời nhưng đã ví nó như NHẬT NGUYỆT phải lý luận như NHẬT NGUYỆT thật sự. Biết bao câu phú ca ngợi cách này. Trường Hợp Vô Chính Diệu tại Sửu có cách kia vẫn còn hay mặc dù NHẬT NGUYỆT bị lạc hãm. Ví von dễ hiểu như là rạp hát ế khách chứ không phải là không có khách.
Nhưng chú ý Vô Chính Diệu có cả CỰ NH ẬT, ĐỒNG ÂM, CƠ LƯƠNG 6 sao cùng chiếu ồn ào hơn một cái chợ.
Đứng hạng nhì là trường hợp Vô Chính Diệu có THAM VŨ xung. Thực chất bên trong có bộ Phủ Tướng bên ngoài có THAM VŨ xung nên rất là hay.
VCD có SÁT TINH độc thủ:
Nếu có KÌNH DƯƠNG ta gọi là KÌNH DƯƠNG độc thủ, cũng vậy nếu có ĐÀ LA ta gọi là ĐÀ LA độc thủ, HỎA TINH độc thủ, LINH TINH độc thủ.
Dĩ nhiên có các Sát Tinh độc thủ không phải là hay, cần xét  nó có đắc ý không, có phù hợpù hợp hay không? Nhất là KÌNH ĐÀ vì bản thân nó chưa hẳn là hung tinh.
VCD có ĐỊA KIẾP ta gọi là ĐỊA KIẾP độc thủ. Ví du: như câu:
ĐỊA KIẾP độc thủ, thị kỷ phi nhân. THAM LANG độc cư đa hư thiểu thật
VCD có lại thêm Mệnh Không Thân Kiếp.
“Mệnh KHÔNG Thân KIẾP lai hội SONG HAO. Vô Chính Diệu thiểu học đa thành.”
Đây cũng là trường hợp hiếm có, chỉ sinh tháng 10, phải có Song Hao, lại Vô Chính Diệu. Học ít thành nhiều. Thực tế người viết chưa gặp trường hợp này không dám kết luận. Song Hao đạt yêu cầu phải là tuổi Đinh Kỷ Quý mới hay.
 CÁC CÂU PHÚ LIÊN QUAN:
Mệnh Vô Chính Diệu đắc TAM KHÔNG hữu SONG LỘC phú quí khả kỳ
Phú Quý Khả Kỳ là giàu sang một thời, chỉ một thời cũng vẽ vang lắm rồi. Vì trong cách này có chứa cách tam KHÔNG cho nên 3 cái không phải trả.
Mệnh Vô Chính Diệu bất minh. PHỤ BẬT gia thủ đem mình ly tông
Vì những lý do trên mà Mệnh VCD có lập trường không rõ ràng, không minh bạch. Trong tình huống đó có sự trợ giúp của PHỤ BẬT dĩ nhiên là dễ rời bỏ tổ tông, vì bật qua bên nầy không được, bật lại bên kia không xong, bật đi xa mơ hồ chưa biết thành bại, thường dễ làm người ta lựa chọn không cần phải là VCD mới lìa bỏ tổ tông, mà có chính tinh đi kèm cũng ưa lìa bỏ. Có câu: “TẢ, HỮU đơn lâm MỆNH viên ly hương sở nghiệp.” Vì tất cả các trường hợp có TẢ HỮU tại MỆNH, tức cung Phụ hay Huynh đều có sao HÌNH, chỉ một sao HÌNH này thôi, ở cũng không yên trong lúc luôn luôn có bạn bè, kẻ trên giúp đỡ Vô Chính Diệu lại càng mau đi nữa.
 “Mệnh TRIỆT, Thân TUẦN tu cần vô hữu chính tinh. Vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.”
Câu này nếu MỆNH TRIỆT, Thân TUẦN Vô Chính Diệu tuổi cao thành đạt, tức tuổi trẻ khó thành. Nhận xét chung trường hợp này có tính phòng bị thái quá.
 “Thân Mệnh đồng cung Tí Ngọ hoặc cư tuyệt xứ. Vô chính tinh khủng kiến MÃ, LINH, HÌNH, KIẾP. Chung thân hoa khai ngộ vũ mãn kiếp phi yểu chiết nhi hình thương.”
Vô Chính Diệu Tại Tý Ngọ lại thêm Thân Mệnh đồng cung. Kỵ gặp MÃ LINH HÌNH KIẾP 4 sao này thấy tay chân tật nguyền rồi. Suốt đời như như đóa hoa nở gặp mưa gió dập vùi, không yểu cũng thương tật.
Thân Mệnh đồng cung tối hiềm nhập mộ hoặc cư Tuyệt xứ. Vô Chính Diệu hoan phùng TẢ HỮU SINH VƯỢNG hoá hung vi cát chung thân vượng hưởng phúc tài.”
Vô Chính Diệu tại Tứ Mộ cung, hoặc tại Hợi. Kỵ Thân Mệnh đồng cung TẢ HỮU SINH VƯỢNG lại tốt, suót đời hưởng 2 chữ phúc và tài lộc
PHÚC Vô Chính Diệu tu cần KHÔNG tú (Tuần), Kị ngộ TRIỆT tinh, nhược phùng SINH, HÌNH, KỊ, VIỆT vi nhân tiêu trưởng.”
Cung Phúc Vô Chính Diệu cần Tuần kỵ Triệt (Vì TRIỆT chủ bị trừ, xem nhẹ coi thường… phải xem trọng, quan phòng… cung này chưa bà con trong đó) Nếu có các sao kể trên là người không thể thành đạt, thành họa thì có... Bộ KỴ HÌNH đã mệt hung rồi, thêm VIỆT chủ phát sinh, thêm Sinh để nẫy họa. (từ hung là phương ngôn người Huế nói riêng, như mệt quá, chư không phải hung dữ hay hung họa).
Bài viết này là mở đầu cho những loạt bài Vô Chính Diệu về sau, khái niệm về Vô Chính Diệu, cụ thể sau nầy muốn viết Vô Chính Diệu có TỬ THAM xung… những khái niệm trong bài viết này đem ứng dụng cho tiện lợi.
Và sau khi bài viết này Post lên người viết phải chuẩn bị đi HUẾ để thăm mẹ già theo chu kỳ 2 tháng 1 lần. Cho tròn (tuần) chữ Hiếu (Tướng Binh, THIÊN TƯỚNG), cứ nghĩ tháng này mong ngóng Đình về, sao không thấy nó về, thôi thì về sớm ngày nào bà an tâm ngày đó. Vì thế mọi thắc mắc của bạn không thể trả lời được. Bạn không nên hỏi những chuyện riêng tư vì làm mất thì giờ của người viết, bạn cũng không nên phơi bày lá số của mình trên mạng, điều đó không hay cho chính bạn sau này.
Bài kỳ tới. Làm thế nào để đoán hạn có chuyển động. (vì thế mà lần này người viết đi Huế không bay bướm như những lần trước)



Nội dung thông tin thuộc về Tử Vi Toàn Tập.